at Capitol.  June 19.1996

 

 

with Sen. JohnMc Cain

 

with Congressman Bob Barr

with General John K Singlaub

CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.

 CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *

THÁNG 02-2023

 

US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS .TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC- COVERTACTION

EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW  NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR

POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTO -CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEE- TASS- DAWN

 

   

NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM

 

THÁNG 02-2023

 

ĐẤT NƯỚC CỦA IIHAN  

Đi du lịch qua Đông Phi và Minnesota tiết lộ một câu chuyện tinh túy của Mỹ hơn là nữ dân biểu hoặc những người gièm pha của cô ấy muốn thừa nhận

ARMIN ROSEN

NGÀY 20 THÁNG 7 NĂM 2022

Christian Couceiro

.

Vào ngày 2 tháng 7 năm 2022, Ilhan Omar xuất hiện một thời gian ngắn trên sân khấu cùng với Suldaan Seeraar, một ngôi sao nhạc pop Somali ra mắt tại Mỹ. Đây là lần đầu tiên cộng đồng người Mỹ gốc Somalia khá lớn ở Minneapolis tổ chức một sự kiện tại Trung tâm Mục tiêu, nhà thi đấu là sân nhà của đội NBA của Twin Cities. Giống như sự nghiệp chính trị của Omar, buổi ḥa nhạc đánh dấu sức mạnh và sự trường tồn của một cộng đồng người Mỹ tương đối mới, một cộng đồng hầu như không tồn tại chỉ 30 năm trước đó. Tŕnh bày trước hàng ngàn thanh niên Somalia, nhiều người trong số họ đến từ Columbus, San Diego và các trung tâm khác của đời sống người Mỹ gốc Somalia, Omar, người gốc Somalia nổi tiếng nhất thế giới và là một trong những thành viên duy nhất của Hạ viện Hoa Kỳ là một nhân vật trung thực của quốc gia, phải đối mặt với một loạt la ó. Sự chế giễu tăng lên khi cô ấy bắt đầu phát biểu trước đám đông. “Chúng ta không có cả đêm,

Việc Omar không được ḷng một số người Somalia hiện nay không có ǵ đáng ngạc nhiên. Chiến dịch tranh cử sơ bộ của cô cho cơ quan lập pháp bang Minnesota vào năm 2016 đă đọ sức với cô với một cựu đồng minh chính trị người Mỹ gốc Somali, Mohamud Noor, cũng như chống lại Phyllis Khan, một người đương nhiệm được Nghị viên thành phố Minneapolis, Hassan Warsame, khi đó là chính trị gia được bầu hàng đầu của cộng đồng Somali, ủng hộ. Omar đă đánh bại cả hai. Sự phản đối được cho là anh hùng của cô ấy đối với những người bảo thủ tôn giáo và xă hội trong chính cộng đồng của cô ấy là chủ đề chính của This Is What America Look Like: My Journey from Refugee to Congresswoman, hồi kư tháng 5 năm 2020 của Omar. Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, quan điểm của cô ấy về phá thai, đồng tính luyến ái và một loạt chủ đề khác không phải là quan điểm của một người theo chủ nghĩa truyền thống Hồi giáo trung thành, và thậm chí c̣n trái ngược với những ǵ mà một người dân Minnesotan thường tin tưởng về các vấn đề tiêu chuẩn. Tại Trung tâm Mục tiêu, cô đưa chồng ḿnh là Tim Mynett lên sân khấu, một nhà tư vấn chính trị không phải là người Somali và chỉ cải sang đạo Hồi vào khoảng thời gian anh kết thúc cuộc hôn nhân trước và kết hôn với Omar. Ahmed Hirsi, vợ trước của Omar, là một nhân vật nổi tiếng và từng tương đối nổi tiếng trong các vấn đề của Twin Cities Somali.

Có lẽ, một nguồn tin trong cộng đồng Somali ở Minneapolis gợi ư cho tôi, tiếng la ó thể hiện sự cáu kỉnh ngày càng tăng của một thế hệ trẻ cởi mở hơn trong việc thực hiện quan điểm cứng rắn về các vấn đề tôn giáo và đạo đức hơn cả cha mẹ của họ. Cộng đồng người Mỹ gốc Somali đă sản sinh ra rất nhiều thanh niên cam kết mạnh mẽ với nền chính trị cấp tiến—xét cho cùng th́ những kẻ la ó dường như không đại diện cho đa số đám đông của Trung tâm Mục tiêu—mà c̣n có nhiều người khác đă đi theo hướng khác, hướng tới một chủ nghĩa cơ bản tôn giáo mà bản thân nó là một phản ứng đối với thực tế rơ ràng của Mỹ. Tất cả có thể rất hoang mang, kể cả đối với chính người Mỹ gốc Somalia. “Con cái của chúng tôi, chúng trông giống chúng tôi,” người đàn ông, một chiến lược gia chính trị và nhà hoạt động ở nam Minneapolis, nói, “nhưng chúng không phải là người Somali. Họ là người Mỹ."

Omar đă không đạt được vị trí của ḿnh bằng cách ḥa giải bất kỳ mâu thuẫn nào trong số này mà bằng cách làm cho chúng có lợi cho cô ấy. Đối với hầu hết các chính trị gia, sẽ là một lời quở trách nhục nhă nếu bị hàng ngh́n thành viên thuộc cộng đồng sắc tộc và tôn giáo của họ la ó tại một sự kiện công cộng lớn được tổ chức trên sân nhà của họ. Những nụ cười và tiếng cười mà cô ấy chào đón sự ngang ngược của những người Somalia trẻ tuổi không xuất phát từ sự lo lắng hay ngạc nhiên. Đây là kiểu đối đầu đă giúp biến cô thành một ngôi sao chính trị.

Bản năng của Omar hiếm khi sai, tuy nhiên họ đă tạo ra cô ấy một cách phân cực. Vào năm 2020, cô ấy kém Joe Biden 16 điểm, kém tổng thống đắc cử hơn bất kỳ ai trong số hơn 200 thành viên Đảng Dân chủ khác của Hạ viện sẽ tái tranh cử. Nhưng cô ấy vẫn giành được 64% phiếu bầu nhờ sức mạnh của một cơ sở hỗ trợ vững chắc bao gồm các nhà hoạt động cực tả, sinh viên đại học, con cái cánh tả của những người nhập cư Somalia bảo thủ về văn hóa và nhà tư sản có đầu óc công bằng xă hội, mới được kích hoạt bởi các cuộc biểu t́nh và bạo loạn nổ ra sau cái chết của George Floyd, xảy ra tại khu vực bầu cử của Omar. Sự cố Target Center có thể giống như một cảnh xấu xí đối với những người biết ít về cuộc đời và sự nghiệp của cô ấy, hoặc như một cơ hội cho các đối thủ chính trị tin sai rằng cô ấy có thể bị đánh bại trong năm nay. Omar đối đầu với cựu thành viên hội đồng thành phố Don Samuels trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ vào tháng 8, một sự thay thế không thú vị so với thời kỳ chính trị trước đó, người có khả năng dẫn đến thất bại hai con số giống như một đối thủ sớm hơn và thậm chí c̣n hứa hẹn hơn đă phải chịu vào năm 2020. cuộc tấn công vào Omar đă từng hạ cánh đặc biệt khó khăn.

Việc trở thành cột thu lôi sẽ gây hại cho Omar nếu cô ấy không chứng tỏ ḿnh là người quản lư khéo léo câu chuyện và h́nh ảnh của chính ḿnh. Điều đó đặc biệt đúng khi nói đến những khía cạnh nhạy cảm hơn trong cuộc sống phức tạp đến chóng mặt của cô ấy, mà cô ấy đă vô hiệu hóa một cách tàn nhẫn, khéo léo xoay chuyển hoặc cẩn thận che khuất tầm nh́n.

Vào ngày 15 tháng 6 năm 2020, Omar thông báo rằng cha cô đă qua đời v́ biến chứng của coronavirus. Khi Somalia ch́m vào cuộc nội chiến vẫn c̣n âm vang vào đầu những năm 1990, Nur Said, khi đó ở độ tuổi 30, đă bất chấp t́nh trạng vô chính phủ đang lan rộng để đảm bảo cho các con và đại gia đ́nh của ḿnh vượt qua được cuộc sống từ Mogadishu đến Kenya, rồi từ một trại tị nạn đến trận chung kết. an toàn tại Hoa Kỳ. V́ anh ấy là người đă giải cứu những người thân yêu của ḿnh khỏi vùng chiến sự và nuôi dạy một nhân vật chính trị đương thời có tính đột phá, nên việc Nur Said dường như không bao giờ ghi lại câu chuyện cuộc đời ḿnh dưới bất kỳ h́nh thức công khai nào hoặc trả lời phỏng vấn trên phương tiện truyền thông là một cơ hội vĩnh viễn bị mất đi. độ sâu thực sự nào. Đóng góp của ông cho sự trỗi dậy chính trị đáng kinh ngạc của con gái ông vẫn c̣n mơ hồ cho đến phút cuối cùng. Trong thời gian cho Ilhan, một bộ phim tài liệu năm 2018 về chiến dịch giành thắng lợi năm 2016 của Omar cho cơ quan lập pháp bang Minnesota, Nur Said được chiếu ăn trưa và nói chuyện bằng tiếng Somali với Omar, quanh các cuộc mít tinh và địa điểm bỏ phiếu với những người đàn ông Somali lớn tuổi khác, đồng thời cùng cô ấy tham dự bữa tiệc mừng chiến thắng trong đêm bầu cử . Khi anh ấy nói bằng tiếng Somali, lời nói của anh ấy hiếm khi được dịch ra. Anh ấy được giới thiệu trong Time for Ilhan với cái tên "Nur Said", mặc dù Omar đă gọi anh ấy là Nur Omar Muhammed Omar trong ḍng tweet của cô ấy thông báo về cái chết của anh ấy.

 

Cha của Hạ nghị sĩ Ilhan Omar, Nur Said, ở giữa, tại lễ tuyên thệ nhậm chức khi bắt đầu Đại hội lần thứ 116, Ṭa nhà Quốc hội Hoa Kỳ, Washington, DC, ngày 3 tháng 1 năm 2019 SAUL LOEB/AFP QUA GETTY IMAGES

Cha của Omar là một trong những anh hùng trong cuốn hồi kư của cô. Tuy nhiên, cô ấy cung cấp rất ít thông tin chi tiết về cuộc sống của anh ấy ở cố hương, trái ngược với các thành viên khác trong gia đ́nh. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng ông ngoại của Omar đă giữ “một công việc của chính phủ, giúp điều hành mạng lưới các ngọn hải đăng của đất nước.” Ông cũng là một người Ư sành ăn, Ư từng là thuộc địa cai trị của Somalia. Vào năm 2016, Omar nói với tờ báo thay thế City Pages của thành phố Minneapolis rằng ông của cô từng là "giám đốc vận tải biển quốc gia" của Somalia và đă học đại học ở Ư, mặc dù không có chi tiết nào xuất hiện trong cuốn sách của cô.

Hồi kư của Omar có đề cập đến “những đặc quyền bất thường” mà mẹ của nữ nghị sĩ tương lai, người đă chết khi Omar c̣n nhỏ, đă được “cha cô ấy”, ông nội của Omar, có quan hệ chính trị, chu cấp. Khu nhà của gia đ́nh ở thủ đô Somali, thuộc về phía mẹ của Omar, nằm sau bức tường bảo vệ và chứa đầy sách, âm nhạc và nghệ thuật. Gia đ́nh sở hữu một chiếc ô tô riêng, một chiếc Toyota Corolla, một điều cũng không b́nh thường đối với các thần dân của một chế độ độc tài cộng sản nghèo khó. Người đọc không t́m hiểu về cuộc sống hoặc địa vị xă hội trước chiến tranh của Nur Said ở cùng mức độ cụ thể, ngoài việc phát hiện ra rằng anh ta lớn lên ở một trong những thị trấn lớn của vùng Puntland, phía đông bắc Mogadishu, và thuộc về một tiểu tộc mà chế độ của Siad Barre đă từng bị đàn áp. Anh ta hai lần được gọi là "nhà giáo dục", không có thêm thông tin chi tiết nào được đưa ra.

Vùng màu xám kéo dài này sẽ không được lấp đầy cho đến sau cái chết của Nur Said. Trong một ḍng tweet chia buồn bằng tiếng Somali , Omar Sharmarke, người từng là thủ tướng Somalia từ năm 2009 đến năm 2010 và sau đó một lần nữa từ năm 2014 đến năm 2017, đă mô tả Nur Said là “Col Nur”—nghĩa là với tư cách là một đại tá—và ghi nhận sự phục vụ của anh ấy trong Lực lượng vũ trang Somalia. Sharmarke là cựu đại sứ Somalia tại Hoa Kỳ nói thông thạo tiếng Anh; cha của ông, một tổng thống của Somalia, bị ám sát ngay trước cuộc đảo chính của Siad Barre vào năm 1969. Trong hệ thống thị tộc Somalia, ông thuộc cùng một tiểu thị tộc với Nur Said và Omar.

Trong sáu tháng trước khi Nur Said qua đời, hơn nửa tá người Mỹ gốc Somali ở Twin Cities và Virginia—trong số đó có một cựu quan chức chính phủ Somali thời hậu nội chiến, con trai của một vị tướng đă phục vụ ngay trước cuộc nội chiến, và nhiều người thân cận với gia đ́nh của Omar hoặc chồng cũ của cô ấy, Ahmed Hirsi, nói với tôi rằng Nur Said không phải là một “nhà giáo dục” mà là một sĩ quan chuyên nghiệp cấp trung trong quân đội Somalia dưới chế độ của Barre. Tin nhắn công khai từ Sharmarke, cũng như từ các thành viên cộng đồng Somaliở Minnesota, đưa ra bằng chứng bổ sung rằng Nur Said từng giữ cấp bậc trong quân đội nổi tiếng với việc tra tấn các tù nhân chính trị, bắn phá các thành phố của chính đất nước và đàn áp các gia tộc bị coi là không trung thành với bè lũ cầm quyền của Siad Barre. Trang web trực thuộc Đài phát thanh công cộng Minnesota Tạp chí Sahan cuối cùng đă mô tả Nur Said là “một sĩ quan quân đội nổi tiếng của Somali.”

Đối với Omar và những người tị nạn Somali khác, cuộc sống ở Hoa Kỳ mang đến khả năng đoạn tuyệt hoàn toàn với chiến tranh, và với hàng thập kỷ gia tăng sự đổ vỡ quốc gia đă khiến xung đột có thể xảy ra. Ở Mỹ, người Somali được tự do tái tạo một số điều họ đă có ở Đông Phi, ở một đất nước mà việc tự thiêu trong toàn xă hội vào thời điểm đó là điều không tưởng. Đời sống tôn giáo và xă hội, bao gồm các khía cạnh của hệ thống thị tộc Somali, nhanh chóng khẳng định lại bản thân ở những nơi như Minneapolis. Sự hồi sinh của cộng đồng người di cư này chỉ có thể thực hiện được nhờ sự thôi thúc chung hướng tới việc rời khỏi nơi tồi tệ nhất của cuộc nội chiến ở đất nước mà họ đă trốn thoát. Hầu như chưa bao giờ người Mỹ gốc Somali ở Minnesota buộc tội nhau về những tội ác kéo dài hàng thập kỷ ở Đông Phi. “Có một loại thái độ xă hội tập thể: Dù chuyện quái ǵ xảy ra,Người Somalia ở Minnesota .

Là một người nhập cư, thiểu số về chủng tộc và tôn giáo, đồng thời là người sống sót sau chiến tranh, Omar có con đường đến với Quốc hội khó khăn hơn so với thành viên “đội” đồng nghiệp Alexandria Ocasio-Cortez, hoặc gần như bất kỳ ai khác về vấn đề đó. Nhưng việc điều hướng nền chính trị Somali ở cả Thành phố song sinh và vùng Sừng châu Phi đă giúp Omar có một khởi đầu thuận lợi trong việc hiểu cần phải làm ǵ để có thể tồn tại ở một nước Mỹ trong tương lai gần đang rạn nứt. Cộng đồng Somali ở Minneapolis, lịch sử Somali gần đây và lịch sử cá nhân của Omar hóa ra lại là sự chuẩn bị hoàn hảo cho một sự nghiệp chính trị quan trọng ở một nước Mỹ ngày càng chia rẽ.

Thuận tiện cho Omar, những người duy nhất đă điều tra nghiêm túc về quá khứ của cô trong suốt sự nghiệp 6 năm của cô trong lĩnh vực chính trị bầu cử là những người viết cho các trang web cánh hữu. Truyền thông Fringier đă cáo buộc Nur Said là tội phạm chiến tranh hoặc chỉ huy của một trại tù, những câu chuyện không được chứng minh một cách thuyết phục và phản ánh sự pha trộn giữa phỏng đoán và tin đồn lan truyền trong cộng đồng Twin Cities Somali. Những lời bóng gió này cho phép những người chỉ trích Omar cho rằng cô ấy đă được hưởng lợi cá nhân từ những hành động tàn bạo về nhân quyền, chỉ sau đó tự phong ḿnh là người tố cáo không khoan nhượng về những bất công của đất nước nhận nuôi cô ấy sau khi cô ấy tham gia chính trị.

Các phương pháp điều trị toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp của cô ấy hầu như không có ở các cửa hàng chính thống hoặc phi tư tưởng. Một số ít đă được viết được xây dựng xung quanh các câu hỏi tiểu sử hẹp hoặc dường như gần như hoàn toàn dựa trên các tuyên bố của chính Omar, điều mà hầu hết các ấn phẩm đă không bận tâm kiểm tra hoặc thách thức.

Vào năm 2019, năm mà nữ dân biểu mới được bầu đă trở thành một cái tên quen thuộc, lần gần nhất một ấn phẩm lớn của quốc gia đưa ra hồ sơ đầy đủ về Omar là một bài báo tháng 7 trên The Washington Post . Bài báo ghi nhận một số sai sót thực tế mà cô ấy đă đưa ra — cô ấy nói với một nhóm cựu chiến binh rằng 45% gia đ́nh quân nhân đang nhận tem phiếu thực phẩm, con số này cao gấp 9 lần so với con số thực tế. Cô ấy nói với một nhóm học sinh trung học rằng cô ấy đă từng chứng kiến ​​​​một “bà già người Mỹ gốc Phi ngọt ngào” bị kết án tù vào cuối tuần và một khoản tiền phạt không thể trả được v́ ăn cắp một ổ bánh ḿ trị giá 2 đô la.

Post đưa ra khả năng rằng vụ việc , không có bằng chứng nào ngoài hồi ức của Omar, đă được tạo ra ngay tại chỗ. “Nếu đúng, nó cũng có thể được thêu dệt,” tờ báo xác định, đồng thời cho biết thêm Omar “nói rằng cô ấy có thể đă ngụy tạo một số sự thật.” Không có vấn đề: Không thể phủ nhận câu chuyện có sức mạnh. Omar có lẽ đă hiểu rằng sự thật của nó là phi vật chất, và rủi ro bị bắt quả tang là điều đáng phải trả. Phần lớn bài báo được dành riêng cho các tài khoản tập trung nhẹ vào công việc bận rộn của quốc hội và các cuộc phỏng vấn với Minnesotans, những người không có ǵ quan trọng để nói về cô ấy.

Việc Omar có thể đảm bảo sự đối xử nhẹ nhàng như vậy từ một cơ quan quyền lực như Post càng khẳng định khả năng làm chủ của cô ấy đối với hệ sinh thái truyền thông chính trị thời hiện đại. Nhưng sự xem xét kỹ lưỡng như vậy cũng gây bất lợi cho Omar, người thường bị giảm bớt thành một loạt câu nói sáo rỗng - cho dù đó là sự minh oan cho chính sách nhập cư tự do, hay bằng chứng về cuộc hành quân cánh tả không thể tránh khỏi của đất nước, hay sự khẳng định của chính nước Mỹ, với khả năng làm cho những người chiến thắng từ những người ở những khu vực tàn ác hơn trên thế giới đă trở thành nạn nhân. Sự thiếu ṭ ṃ rơ ràng của báo chí về Omar cũng thể hiện sự tự tôn: Mổ xẻ câu chuyện cuộc đời của Omar được coi là tṛ tiêu khiển của cánh hữu. Việc không quan tâm đến tiểu sử của cô ấy, và ngay cả trong sự nghiệp chính trị trước quốc hội của cô ấy, là bằng chứng cho thấy cô ấy đủ sáng suốt để không thuộc nhầm câu lạc bộ.

Được hỗ trợ bởi sự rút lui chiến thuật của giới truyền thông, Omar đă trở thành nguồn đầu tiên và cuối cùng của công chúng để hiểu làm thế nào một trong những nhân vật chính trị lớn của đất nước đạt được vị trí của cô ấy. Cô đă đảm bảo rằng một số khía cạnh trong cuộc sống của ḿnh—như sự phục vụ của cha cô cho chế độ Siad Barre, cùng với mọi thứ gợi ư về cách thức và lư do Omar có thể thoát khỏi t́nh trạng suy sụp và sau đó thành công ở một đất nước cách xa nơi sinh ra đầy khó khăn của cô hàng ngh́n dặm. —chỉ được đề cập bởi các đối thủ của cô ấy. Với sự giúp đỡ của những người ủng hộ tận tụy, một phương tiện truyền thông ṭ ṃ và sự đối kháng về chủng tộc và tôn giáo của Donald Trump, Omar đă thành công trong việc hợp lư hóa lịch sử mê cung của ḿnh thành một câu chuyện gây xúc động về một tinh thần bất khuất đạt được vận mệnh của ḿnh, phá bỏ sự lạc hậu của nước Mỹ trong quá tŕnh này.

Omar hiện đă ở trong Quốc hội được hơn ba năm rưỡi. Nền chính trị Hoa Kỳ đă mất đi phần lớn tính chất địa phương và thậm chí là khu vực, một phần nhờ vào những nhân vật như bà. Đời sống chính trị của đất nước giờ đây gần như hoàn toàn ở quy mô quốc gia và do cá nhân điều khiển, một cuộc xung đột giữa những người t́m kiếm tranh căi, những người thực chất là những người nổi tiếng, và những người không ngừng tranh giành sự chú ư và ngưỡng mộ trước một phần ba tỷ công dân. Omar đă nhận ra sự thay đổi này sang thế giới của Ocasio-Cortezes và Marjorie Taylor Greenes sớm hơn hầu hết mọi người. Cô ấy hiểu rằng cô ấy đang chơi trên một lĩnh vực lớn hơn một quốc hội tiểu bang hoặc khu vực quốc hội, hoặc thậm chí là bất kỳ quốc gia nào. Cô ấy nhận ra rằng chính trị đang trở thành một đấu trường ít được xác định bởi chính sách và hành động hơn là bởi sự đầu tư vào cảm xúc cá nhân và tường thuật. Tiếp tục từ cái nh́n sâu sắc này,

Nền chính trị Hoa Kỳ đă trỗi dậy – hoặc có lẽ đă sa sút – để đáp ứng mức độ nghiêm khắc của Omar. Những biến động của thời điểm hậu George Floyd, đại dịch coronavirus và hậu quả hỗn loạn của cuộc bầu cử tổng thống năm 2020 đă thúc đẩy một quá tŕnh hiện có: Việc tái tổ chức đất nước thành những khu vực lâu bền và thường không thể xuyên thủng của các câu chuyện cạnh tranh, mỗi người đều tin rằng dự án của Mỹ là dưới mối đe dọa hiện hữu từ gần như tất cả mọi người bên ngoài trại của họ, cho dù những kẻ thù đó là những người theo chủ nghĩa Trump, QAnoners, những người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, cảnh sát, những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, những người theo chủ nghĩa trung thực về COVID, những nhà tư bản tân tự do, những người chống vắc-xin, phong trào chuyển giới, Black Lives Matter, những người theo thuyết chỉ trích chủng tộc, những người theo chủ nghĩa băi nô cảnh sát, những người theo chủ nghĩa xă hội dân chủ, hoặc tầng lớp quản lư chuyên nghiệp.

Chính trị Mỹ giờ đây giống như một cuộc đấu tranh giữa các bộ lạc, một cuộc cạnh tranh giữa một tập hợp các nhóm trong các nhóm để tranh giành các nguồn tài nguyên khan hiếm và thậm chí là các kênh quyền lực thực tế c̣n khan hiếm hơn. Bảo vệ và thăng tiến bộ lạc chính trị của một người bằng cách sử dụng đầy đủ các công cụ sẵn có, bao gồm thao túng truyền thông, tính không trung thực có tính toán và biểu t́nh quần chúng, thường là một mục tiêu thay thế cho bất kỳ ḷng trung thành nào đối với một đảng chính trị hoặc hệ thống ư thức hệ, cũng như bất kỳ lư tưởng nào cao hơn, chẳng hạn như sự thật.

Một ví dụ về quyền chỉ huy của Omar đối với chế độ chính trị đi lên này là ḍng tweet bom tấn của cô ấyvào ngày 16 tháng 4 năm 2022, trong đó cô ấy đă chia sẻ video về một nhóm Cơ đốc nhân đang hát một bài hát tôn giáo giữa chuyến bay chật cứng người. Nữ nghị sĩ đội khăn trùm đầu duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đă lên tiếng để bêu xấu sự thể hiện tôn giáo nơi công cộng này, điều mà bà coi là bằng chứng về sự cố chấp của đất nước nơi bà phục vụ trong cơ quan lập pháp quốc gia. “Tôi nghĩ tôi và gia đ́nh nên có một buổi cầu nguyện vào lần tới khi tôi đi máy bay,” cô châm biếm. “Bạn nghĩ nó sẽ kết thúc như thế nào?” Những người trong video hoàn toàn ẩn danh, không có lư lịch và quyền lực của Omar. Họ không có mối liên hệ nào với quận của Omar ở Minneapolis, hoặc với bất kỳ câu hỏi nào về chính sách, chính hay phụ. Nhưng Omar nhận ra rằng video này là cơ hội để dạy một số người Mỹ về mức độ kinh khủng của họ, và để khuếch đại sự bất b́nh một cách mạnh mẽ đến mức bất kỳ cuộc tranh luận nào sau này sẽ kém gay gắt hơn, ít thú vị hơn và ít gây chia rẽ ngay lập tức hơn cảnh quay ban đầu của Omar. Tên của cô ấy có xu hướng trên Twitter trong hai ngày. Ḍng tweet đă tạo ra các phân đoạn op-ed và tin tức và hiện có hơn 200.000 lượt thích.

Câu chuyện của Ilhan Omar là hành tŕnh của người Somalia và những nhóm dân số dễ bị tổn thương khác t́m thấy sự an toàn ở nước Mỹ đương đại, một phần nhờ có được quyền tự do lựa chọn những ǵ họ nên mang theo và những ǵ trong cuộc sống cũ của họ để lại phía sau.

https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country

Sân khấu chính trị gây chia rẽ và thu hút sự chú ư của Omar phục vụ mục đích của cô ấy ngay cả khi nó sắp trở nên phi lư. Vào ngày 19 tháng 7, cảnh sát đă hộ tống nữ nghị sĩ ra khỏi khuôn viên của Ṭa án Tối cao trong một cuộc biểu t́nh ủng hộ quyền phá thai. Cùng với Ocasio-Cortez, Omar giữ hai tay sau lưng, tạo ra ấn tượng sai lầm rằng cô ấy đă bị c̣ng tay. Mưu mẹo đă thành công: ABC News , trong số những người khác, đă tweet để thông báo về việc bắt giữ hai ngôi sao lập pháp. Dù đang trong quá tŕnh chỉnh sửa hay không, h́nh ảnh Omar cười nửa miệng sau cặp kính râm dày, đeo một chiếc ṿng cổ có hạt màu hổ phách sẫm màu phù hợp với áo sơ mi và khăn trùm đầu của cô, với một cảnh sát xuất hiện để khống chế cô và mặt tiền kiểu Corinth của ṭa án tối cao hiện ra lờ mờ ở phía sau , có một sức mạnh vượt xa bất kể sự thật trần trụi nào.

 

Sự nổi lên của Ilhan Omar với tư cách là một trong những nhân vật chính trị tiêu biểu của thời đại và khả năng kéo dài tuổi thọ trong sự nghiệp quốc hội của cô ấy, khiến việc hiểu cách thức và lư do cô ấy tiến xa đến mức này càng trở nên quan trọng hơn. Câu chuyện của cô ấy, và sự giao thoa định mệnh của nó với cả lịch sử hiện đại của Somalia và Hoa Kỳ, là bằng chứng trấn an rằng Hoa Kỳ vẫn là vùng đất của sự tái tạo. Đối với người tị nạn Somali, cũng như đối với người Do Thái một thế kỷ trước, Mỹ là lối thoát khỏi lịch sử, là nơi duy nhất trên Trái đất mà quá khứ đau thương gần đây có thể được ḥa giải một cách ḥa b́nh. Câu chuyện của Ilhan Omar là hành tŕnh của người Somalia và những nhóm dân số dễ bị tổn thương khác t́m thấy sự an toàn ở nước Mỹ đương đại, một phần nhờ có được quyền tự do lựa chọn những ǵ họ nên mang theo và những ǵ trong cuộc sống cũ của họ để lại phía sau. Omar, giống như hàng thế kỷ những người mới đến Mỹ đầy tham vọng,

lhan Omar sinh ra ở Mogadishu vào năm 1982. Mẹ cô đến từ một gia tộc Somali có nguồn gốc từ Yemen; bà qua đời khi nữ nghị sĩ tương lai vẫn c̣n là một đứa trẻ. Trong một cảnh sâu sắc trong Time for Ilhan, ứng cử viên cơ quan lập pháp tiểu bang suy nghĩ về sự vắng mặt của mẹ cô khi cô tết tóc cho cô con gái út. “Khi tôi c̣n nhỏ như bạn, các chị gái của tôi đă cắt tóc của tôi và khiến tôi luôn bị hói. Bạn biết tại sao mà? Bởi v́ tôi không có mẹ, và không ai đủ kiên nhẫn để làm công việc kinh doanh điên rồ này.” Cha cô đến từ phân tộc Osman Mahmoud của chi nhánh Majeerteen của Darod. Gia tộc theo chế độ phụ hệ ở Somalia, v́ vậy Omar và các anh chị em của cô cũng được coi là một phần của Osman Mahmoud, một nhóm có nguồn gốc từ ḍng dơi các vị vua thời trung cổ. “Giống như tôi, cô ấy xuất thân từ một gia đ́nh hoàng gia,” Haji Mohamed Yasin, một nhà phân tích và nhà hoạt động chính trị ở Nairobi, giải thích khi tôi gặp anh ấy ở Kenya vào mùa thu năm 2019.

Cô bé Omar sống trong một sự an toàn và thoải mái mà hầu hết mọi người không thể tưởng tượng được ở một đất nước phần lớn là rất nghèo. Theo hồi kư của Omar, mẹ cô từng là “thư kư cho một bộ trưởng chính phủ”, trong khi ông nội của cô là quản lư hàng hải của chính phủ với tài năng nấu ăn kiểu Ư. Omar viết rằng “gia đ́nh công chức và giáo viên của cô ấy đủ khá giả để có một khu nhà được bảo vệ và tài xế. Nhưng tôi không thích sự chú ư mà tôi nhận được từ những đứa trẻ khác v́ đặc quyền được đối mặt với chiếc Toyota Corolla màu trắng của chúng tôi và tài xế Farah của chúng tôi—cũng như những ràng buộc.”

Bản thân việc có được sự giàu có và an toàn ở Somalia thời Barre không gây tổn hại về mặt đạo đức như gia đ́nh của Omar. “Trong trường hợp của Ilhan Omar và gia đ́nh cô ấy, họ đă được đặc ân ngay từ đầu, trước khi nhà nước Somali được thành lập,” Adam Matan của Phong trào Chống Chủ nghĩa Bộ lạc có trụ sở tại London cho biết vào cuối năm 2019, khi nói chuyện với một nhận thức chung của cộng đồng người Somalia lưu vong về nguồn gốc của Omar. “Cô ấy ở Mogadishu, thuộc thành phần khá giả ở Somalia. Sau đó, theo đúng nghĩa đen, bạn phải chạy trốn cho cuộc sống của ḿnh.

Gần như mọi con đường dẫn đến tiện nghi tư sản và kiểu hợp chất gia đ́nh nhiều thế hệ, nhiều ṭa nhà mà Omar mô tả trong hồi ức về cuộc sống ban đầu của cô ở Mogadishu đều trải qua chế độ của Siad Barre. Bắt đầu từ những năm 1970, nhà độc tài độc đoán đă đưa đất nước vào con đường dẫn đến thảm họa.

Barre giành được quyền lực trong một cuộc đảo chính quân sự năm 1969, chấm dứt cuộc thử nghiệm dân chủ kéo dài 9 năm sau khi Somali độc lập khỏi Ư. Anh ta được biết đến với cái tên “Ông già”, một nhân vật khắc kỷ và xa cách, xung quanh anh ta là những sĩ quan quân đội trẻ hơn mà anh ta có thể kiểm soát. Nhiều nhà độc tài lười biếng hoặc ngu ngốc, và cai trị không có ǵ phức tạp hơn là sợ hăi, nhưng Barre nổi tiếng là một người nghiện công việc, người sẽ ở lại văn pḥng cho đến sáng sớm. “Barre là một nhà độc tài cực kỳ khôn ngoan,” Ali Abdullahi, một học giả ở Nairobi, cho biết khi tôi gặp ông ấy vào năm 2019. “Ông ấy biết rất rơ về bạn bè và kẻ thù của ḿnh. Anh ấy nắm vững nghệ thuật động lực của bang hội.

 

Họ Barre vào năm 1976

Họ Barre vào năm 1976 KEYSTONE/HULTON ARCHIVE/GETTY IMAGES

 

Cai trị với tư cách là một nhà cách mạng cộng sản, Barre t́m cách áp đặt một hệ tư tưởng xa lạ lên một xă hội gồm những người chăn gia súc, nông dân, nhà thơ truyền miệng và thương nhân gắn bó với nhau bởi gia đ́nh, tôn giáo và nhiều nguồn ư nghĩa và sự gắn kết khác mà chủ nghĩa cộng sản t́m cách giải phẫu. Mặc dù anh ấy tính đến việc thúc đẩy biết chữ được ca ngợi rộng răi trong số những thành công của ḿnh, nhưng quy tắc của Barre không bao giờ được đảm bảo. Việc cai trị một quốc gia chư hầu của Liên Xô khiến ông trở thành một kẻ thù nhỏ của Hoa Kỳ. Trong nội bộ, ông chống lại các thế lực lâu đời hơn và được kính trọng hơn bất kỳ nhà độc tài hay hệ tư tưởng chính trị nào, trong đó có Hồi giáo. Một trong những tội ác lớn đầu tiên của Barre là vụ hành quyết 11 nhà lănh đạo tôn giáo bị buộc tội rao giảng chống lại chiến dịch “giải phóng phụ nữ” của chế độ vào năm 1975.

 

Đến năm 1977, nỗ lực áp đặt chủ nghĩa xă hội của Barre đă phá hủy nền sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của đất nước. Nhà độc tài đă thực hiện một nước cờ liều lĩnh nhất trong thời kỳ nắm quyền của ḿnh và xâm chiếm các khu vực có đa số người Somali ở phía đông Ethiopia, nơi mà ông ta hy vọng sẽ thôn tính. Chiến dịch thất bại khi Liên Xô đổi phe trong cuộc xung đột và bắt đầu ủng hộ chế độ cộng sản tàn bạo của nhà lănh đạo chính quyền người Ethiopia, Mengistu Haile Mariam, đă đẩy lùi cuộc thám hiểm của Barre vào vùng Ogaden với sự giúp đỡ của các cố vấn quân sự và vũ khí của Liên Xô, cũng như 12.000 người Cuba. biệt kích. Thất bại nhục nhă đă để lại cho Barre một con đường khả thi để tồn tại: Việc khai thác hệ thống thị tộc của Somalia, giống như Hồi giáo, là đối thủ của chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn hữu cơ đối với xă hội Somalia.

Thị tộc hoạt động như một khuôn khổ cho hệ thống chính trị Somalia hiện tại. Tại hội nghị ḥa b́nh Djibouti năm 2001, các nhà đàm phán đă đưa ra một ư tưởng được gọi là “4.5”, trong đó một thành viên từ mỗi nhóm trong số bốn nhóm lớn nhất phải đảm nhận chính xác một trong những chức vụ cao nhất trong chính phủ, với “điểm năm” đề cập đến một đại diện của một trong những thị tộc được gọi là "thiểu số". Ngày nay, các chính trị gia Somali thường xuyên tới Minnesota để gây quỹ giữa các thành viên trong gia tộc.

Việc tổ chức hệ thống chính trị Somali theo ḍng phả hệ—hoặc việc thiếu bất kỳ sự thay thế rơ ràng, bất bạo động nào đối với phương pháp tổ chức như vậy—ít vô lư hơn xét theo mọi thứ mà thị tộc bao gồm ngoài chính trị bầu cử. Ở nơi đồng nhất nhất về mặt dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo ở Châu Phi, thị tộc vẫn là bản sắc của cả phương sách đầu tiên và cuối cùng. “Đối với một số người, thị tộc luôn là một loại bảo hiểm,” Abdirahman Abtidon, một tác giả viết tiếng Somali và là cộng tác viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Somali của Đại học Rome, giải thích. “Nếu một số nhóm tấn công, ai bảo vệ bạn? Gia đ́nh bạn." Trong thời kỳ có quyền lực tập trung rơ ràng, như quy tắc của Barre, các thị tộc cung cấp các kênh trung thành sẵn có. Trong thời kỳ không có chính quyền, thị tộc là một trong những thể chế xă hội cuối cùng tồn tại.

Một trong những hành động tàn bạo đầu tiên của Barre trong việc tái thiết hệ thống thị tộc cho phù hợp với mục đích chính trị của ông ta là việc đàn áp tiểu tộc Majeerteen của Darod, những người mà ông coi là vật tế thần cho thảm họa Ogaden. Barre thuộc về Marehan, một nhánh khác của Darod. Năm 1978, chế độ của ông xử tử 17 sĩ quan Majeerteen bị buộc tội âm mưu đảo chính, sau đó phát động một chiến dịch đàn áp rộng lớn hơn. Nhà sử học Lidwien Kapteijns viết trong cuốn sách năm 2012 Thanh lọc bang hội ở Somalia : “Hàng trăm sĩ quan quân đội bị vây bắt, cơ quan dân sự bị thanh trừng, và các nhà lănh đạo chính trị, người lớn tuổi, trí thức, doanh nhân, nhà lănh đạo tôn giáo, thậm chí cả phụ nữ đều bị đưa đến các nhà tù tồi tệ nhất của Barre”.. Bên ngoài giới tinh hoa xă hội và chính trị này, chế độ đă đốt cháy 18 ngôi làng Majeerteen, tàn sát khoảng 2.000 người, tịch thu gia súc và đặt ḿn dưới đất nông nghiệp. Cuộc thanh trừng đă phá vỡ giới thượng lưu Majeerteen. Một số rời Somalia để tham gia các phong trào đối lập khác nhau khi sống lưu vong. Majeerteen khác bị mắc kẹt xung quanh, bao gồm cả cha của Omar.

Phục vụ chế độ Barre với tư cách là một Majeerteen không khiến Nur Said trở thành mục tiêu nghi ngờ của những người Somalia ở Minneapolis. Ông được nhiều người kính trọng và vẫn tích cực tham gia các công việc của người Somali trong thành phố. Omar đă cố gắng kết hợp cha ḿnh vào các chiến dịch chính trị của ḿnh; trong một bài đăng trên Facebook, Sahra Noor, chị gái của Omar, mô tả anh ta là “một nhà chiến lược chính trị và gây quỹ vĩ đại.” Trong hồi kư của Omar, cô nhớ lại việc cha ḿnh can thiệp với những người lớn tuổi trong cộng đồng người Somali ở Minnesota, người đă thề sẽ đè bẹp chiến dịch lập pháp cấp bang của những người mới nổi tiến bộ vào năm 2016. Người Mỹ gốc Somali ở Twin Cities nói rằng ông thường xuyên có mặt tại Starbucks ở Cedar-Riverside, một nơi tụ tập của đàn ông Majeerteen. Một Nur Said Mohamed Elmi xuất hiện với tư cách là người kư tên trên một bức thư ngỏ từ “Các cộng đồng Jubaland có liên quan” ủng hộ việc thành lập một quốc gia Jubaland tự trị trong hệ thống liên bang mong manh của Somalia. (Mặc dù Nur Said đến từ Puntland, nhưng cả hai khu vực đều có số lượng lớn người Darod; cả hai đều thường xuyên căng thẳng với chính quyền trung ương yếu kém ở Mogadishu.)

Nur Said là một thành viên của “thế hệ lớn tuổi hơn”, như một nguồn tin cộng đồng người Somali ở Minneapolis đă nói—một người ḥa đồng với những người cùng tuổi với ḿnh và thường chỉ nói bằng tiếng Somali. Một người Minnesotan khác thân thiện với gia đ́nh đă mô tả anh ta là “một chàng trai rất ḥa nhă, hầu như dễ bị khuất phục. Nhưng rất thông minh. Anh ấy có sự khôn ngoan thầm lặng về anh ấy. Ông ấy cũng có một cái ǵ đó hoàn toàn khác với bất kỳ người cha Somalia nào mà tôi biết. Anh ấy có sự tôn trọng như vậy với các con gái của ḿnh ... anh ấy muốn sự chú ư dành cho cô ấy chứ không phải cho bản thân anh ấy. Bạn có thể cảm nhận được nó.

Trên thực tế, tất cả mọi người trong bộ máy nhà nước Somalia đều có cái nh́n sâu sắc về sự sụp đổ từ từ của đất nước. Abdirashid Buule, người đă trở thành nhân viên thực địa cho Bộ Chăn nuôi sau khi tốt nghiệp trung học, kể lại rằng vào giữa những năm 1980, các đội của ông không thể tiếp cận một số khu vực nhất định trừ khi họ có sự cho phép rơ ràng của dân quân địa phương. Chính phủ có các nhóm chiến binh ưa thích của riêng ḿnh, điều đó có nghĩa là các cuộc tranh giành quyền lực ở cấp địa phương đă diễn ra gay gắt ngay cả trước khi nội chiến nổ ra. “Những ǵ chúng tôi có tốt hơn là không có chính phủ,” Buule nói với tôi ở Nairobi vào năm 2019. “Nhưng hệ thống chỉ dành cho chính nó. Barre chỉ nghĩ đến ngày đó, khi ông ấy có quyền lực.”

Sự đào tẩu của các quan chức cấp cao của chế độ, bao gồm cả đại sứ của Barre tại Hoa Kỳ, bắt đầu vào đầu những năm 80. Nội chiến nổ ra vào năm 1987 khi lực lượng không quân của Barre san phẳng Hargeisa, thành phố lớn nhất trong khu vực mà tộc Ishaq chiếm ưu thế. Nhà độc tài đă dựa vào hệ thống thị tộc khi quyền cai trị của ông ta suy giảm, ủng hộ các tiểu thị tộc Marahan, Ogaden và Dulbahante của Darod và giết hàng ngh́n Ishaq để khủng bố miền bắc bất ổn của đất nước phải khuất phục.

Từ Nairobi đến Melbourne đến Minneapolis, phần lớn cộng đồng người Somali lưu vong theo dơi sự h́nh thành của nó cho đến những tuần cuối cùng của năm 1990, khi quân nổi dậy đến Mogadishu và đất nước rơi vào hỗn loạn mà nó vẫn chưa xuất hiện hoàn toàn. Đại hội Somali Thống nhất của Mohamed Farah Aidid tiến vào thành phố, bắt đầu nhiều tháng giết người trả thù nhắm vào bất kỳ thành viên nào thuộc bất kỳ nhánh nào của gia tộc Barre's Darod, bất kể họ có ủng hộ chế độ hay không. “Tất cả những người có liên hệ với 'the' Darod - một cấu trúc phả hệ bao gồm một số thị tộc và một tỷ lệ lớn cư dân của Mogadishu và toàn bộ đất nước - giờ đây, bất kể lịch sử cá nhân của họ, đều bị coi là kẻ thù của Kapteijns viết. Trong năm đầu tiên, cuộc xung đột được cho là đă giết chết 14.000 người và khiến 400 người khác phải rời bỏ nhà cửa. 000 chỉ riêng ở Mogadishu. Nhiều người đầu tiên đến Hoa Kỳ tị nạn là Darod, giống như Omar.

Người Somalia thường cống hiến gần như tất cả những ǵ họ có để giải cứu gia đ́nh. Yaxia Osman, một cựu chủ cửa hàng ở Mogadishu mà tôi gặp ở Mombasa vào năm 2019, đă chứng kiến ​​những người xung quanh ḿnh bị giết và sau đó tiêu toàn bộ số tiền tiết kiệm được, tổng cộng khoảng 30.000 USD, thuê xe tải để đưa đại gia đ́nh của ḿnh đến biên giới. Hầu hết những người Somalia phải di dời, những người nghèo hơn Osman rất nhiều, chỉ đơn giản là bắt đầu đi bộ đến những nơi mà chiến tranh chưa đến được. Abdullahi Ali Aden, một người tị nạn mà tôi gặp tại khu phức hợp trại Dadaab ở sa mạc Kenya vào cuối năm 2019, đă đi bộ bằng chân trần đến biên giới Somali-Kenyan sau khi chiến tranh bùng nổ. Gia đ́nh năm người của anh ngủ bên vệ đường; họ sống sót v́ mang theo đàn dê gồm 28 con, gần một nửa trong số đó họ đă giết thịt trong chuyến hành tŕnh kéo dài hàng tuần đến nơi tương đối an toàn.

Bên ngoài nhà của Tổng thống Ali Mahdi ở Mogadishu, 1991

 

Bên ngoài nhà của Tổng thống Ali Mahdi ở Mogadishu, 1991 ALEXANDER JOE/AFP QUA GETTY IMAGES

Câu chuyện về người tị nạn nổi tiếng nhất trong cuộc xung đột cũng là một trong những người lạ mặt trong cuộc chiến trốn thoát đến nơi an toàn. Gia đ́nh Omar ở lại Mogadishu nhiều tháng sau khi Barre bị lật đổ. Vào một đêm, theo hồi kư của Omar và nhiều lời kể khác mà cô ấy được cung cấp, những kẻ tấn công từ một nhóm dân quân không xác định đă cố gắng mở rộng cổng và tường của khu nhà khi gia đ́nh tập trung ở sân sau bữa tối. Như Omar nhớ lại trong cuốn sách của ḿnh, gia đ́nh đă nhốt ḿnh trong ṭa nhà chính của khu nhà; cậu bé Omar trốn dưới gầm giường. Một loạt tiếng súng vang lên trước cổng. Một người cô và một người chị gái đă nhận ra hai trong số những chiến binh mà họ đă biết từ thời thơ ấu và mạnh dạn bắt đầu thương lượng để giành lấy mạng sống của gia đ́nh. Những kẻ tấn công rút lui khi hai người phụ nữ khiến họ xấu hổ bỏ đi.

Cha và ông của Omar bắt đầu thực hiện kế hoạch trốn thoát của họ vào sáng sớm hôm sau. Omar và một người họ hàng là nữ đă đi đến thành phố ven biển Kismayo trên một chiếc xe tải và cuối cùng ra khỏi Somalia bằng đường hàng không: “Chúng tôi bị đưa lậu ra khỏi đất nước với cái giá rất đắt trên một chiếc máy bay nhỏ dùng để chở tôm lậu,” cô ấy viết. “D́ tôi và tôi đi trên một chiếc máy bay, c̣n ông tôi trên một chiếc khác.” Theo hồi kư của Omar, cha cô không đi cùng cô - cô không giải thích được ông đă đến Kenya bằng con đường nào.

Sân bay Mogadishu đóng cửa vào ngày 31 tháng 12 năm 1990 khi giao tranh gia tăng; việc thuê các chuyến bay quốc tế ở một Somalia đang nhanh chóng rơi vào t́nh trạng hỗn loạn là điều chưa từng xảy ra. Tuy nhiên, theo hồi ức của Omar, đại gia đ́nh gồm khoảng 20 người của cô đă sơ tán thành công một đất nước có các trạm kiểm soát của phiến quân, các cuộc đọ súng và bạo lực giữa các bộ tộc bằng xe tải và nhiều máy bay. Một cuộc trốn thoát như vậy đ̣i hỏi sự kết hợp của các nguồn lực, may mắn và kế hoạch tiên tiến mà hầu như không có cuộc trốn thoát nào khác có được. Bản thân Barre đến Kenya sau đó vào năm 1991 bằng đường bộ.

Huyền thoại nguồn gốc của cộng đồng người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis liên quan đến một nhà máy sản xuất gà tây cách đó ba giờ về phía tây, tại một thị trấn tên là Marshall, Minnesota, nơi có dân số hiện tại là 13.000 người. Trong mùa đông băng giá năm 1992, một nhóm khoảng 20 thanh niên t́m đường đến Marshall, nơi một người đàn ông Somali làm giám sát ca của nhà máy. Những người mới đến hầu như không nói được tiếng Anh và có ít kỹ năng thị trường. Họ đang sống qua một bi kịch vừa xa lạ vừa vô h́nh đối với những người hàng xóm mới của họ, hầu hết tất cả đều là người da trắng theo đạo Thiên chúa và không có kinh nghiệm trực tiếp về nội chiến.

Những người Somalia đến Mỹ với tư cách là những người tị nạn sau một cuộc xung đột đă giết chết bạn bè và người thân của họ, xóa sạch mọi thứ họ đă tiết kiệm hoặc xây dựng, và khiến các thành viên gia đ́nh mắc kẹt trong các khu ổ chuột và trại tị nạn trên khắp Đông Phi và Trung Đông. Những người đàn ông chủ yếu sống ở San Diego khi đến Mỹ, và t́m kiếm việc làm ở bất cứ nơi nào họ có thể t́m thấy. Họ ngủ lại bến xe buưt ở Sioux Falls vào đêm trước chặng cuối của chuyến đi tới Marshall, một nơi mà họ không cảm thấy được chào đón đặc biệt. Không ai thuê nhà ở cho họ - những người công nhân sống trong những chiếc xe kéo mà chủ nhà máy cung cấp. Vào những giờ lạnh giá trước b́nh minh, họ sẽ xếp hàng trước một chiếc điện thoại công cộng ở trung tâm thị trấn để gọi cho người thân ở Nairobi hoặc Sanaa hoặc London để biết ai đă và chưa rời khỏi Somalia. Một chiếc xe cảnh sát đôi khi sẽ dừng lại,

Măi cho đến sự kiện Black Hawk Down khét tiếng vào tháng 10 năm 1993, trong đó các chiến binh đă giết chết 19 lính Mỹ ở Chợ Bakaara của Mogadishu, người dân Marshall mới hiểu rằng những người hàng xóm mới bí ẩn này là những người sống sót trong địa ngục trần gian, bị tước đoạt bởi một cuộc chiến đă tàn phá. mọi thứ của kiếp trước của họ. Người dân thị trấn ngày càng sẵn sàng cho người Somalia thuê, những người bắt đầu học tiếng Anh và hiểu rơ hơn về cuộc sống ở vùng nông thôn Minnesota. Người Somalia thấy rất thích Marshall. Có rất nhiều công việc đ̣i hỏi kỹ năng thấp, cùng với đặc tính dè dặt nghiêm khắc của người Minnesota có xu hướng để mọi người ở một ḿnh bất kể họ có thể xuất hiện bên ngoài ḍng chính như thế nào. “Trong văn hóa Somali có một khái niệm gọi là sahan— do thám,” Yusuf giải thích. Người Somalia phát hiện ra rằng họ có thể sống tương đối thoải mái ở Minnesota và vẫn c̣n đủ tiền để hỗ trợ người thân ở nước ngoài. “Một khi họ phát hiện ra rằng họ có thể nuôi sống gia đ́nh ḿnh ở Ethiopia hoặc ở Kenya hoặc ở Yemen, th́ tin tức đó đă bị loại bỏ.”

Những người tị nạn Somali mà chính phủ Hoa Kỳ đă cho tái định cư ở những vùng có khí hậu ấm áp hơn và có vẻ hiếu khách hơn ở San Diego và bắc Virginia dần dần t́m đường đến miền bắc lạnh giá của đất nước mới của họ, một nơi có khí hậu ảm đạm, địa lư không giáp biển, bầu trời như kim loại và một màu trắng đồng nhất. và dân số Cơ đốc giáo gần như đối lập với nơi họ đă chạy trốn.

Từ Marshall và các thị trấn nhỏ khác, người Somalia bắt đầu hướng tới đô thị lớn nhất của bang, một thành phố mới nổi cần tài xế taxi, công nhân nhà máy và nhân viên khách sạn. Điều đó giúp Minneapolis là một nơi hoàn toàn yên tĩnh và an toàn hơn so với các trung tâm dân số lớn khác của Mỹ.

Giống như bất kỳ huyền thoại sáng tạo nào, câu chuyện về cách người Somalia đến Minneapolis rất thú vị v́ những ǵ nó bỏ qua. Một số lượng đáng kể người Somalia đă đến được Minnesota nhờ chương tŕnh tái định cư người tị nạn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chương tŕnh này đă xác định bang miền trung tây lạnh giá, khi đó có khoảng 97% là người da trắng, là nơi cần nguồn cung cấp mới những người nước ngoài nghèo khó. Quan trọng hơn, Hoa Kỳ quan tâm đến người Somalia so với các nhóm dân số đang gặp nguy hiểm khác v́ nhận thức được lợi ích quốc gia trong việc giúp đỡ những người đă chịu đau khổ thay cho Hoa Kỳ. Chế độ của Barre đă trở thành đồng minh của Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh, và vào tháng 12 năm 1992, Hoa Kỳ đă gửi 25.000 binh sĩ đến Somalia để bổ sung cho lực lượng Liên Hợp Quốc trong nỗ lực cuối cùng nhằm ổn định đất nước. Chính sách của Mỹ ở Somalia đă thất bại,

Đến tháng 3 năm 1995, tất cả quân đội nước ngoài đă rút khỏi Somalia, khi cuộc xung đột trở thành một t́nh trạng xă hội kinh niên kéo dài cho đến ngày nay. Cuộc di cư của khoảng 18.000 người Somalia đến Hoa Kỳ vào cuối năm 1996 và gần 110.000 người vào cuối những năm 2010, bao gồm các đối tác an ninh của Mỹ và các quan chức cấp cao của chế độ Barre có dính máu, cũng như những người Somalia b́nh thường cùng gia đ́nh ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ từ trước khi chiến tranh bùng nổ, cùng với những người khác đă vô cùng may mắn.

Trong khi thiểu số người tị nạn Somali may mắn nhất đến được Mỹ, th́ một số lớn hơn nhiều đă bị bỏ rơi ở Dadaab, cách Nairobi một giờ bay ở miền đông Kenya. Mặc dù gần với thành phố quan trọng nhất của Đông Phi, Dadaab là một khu vực tranh tối tranh sáng trên sa mạc, người không phải người Kenya gần như không thể đến thăm: Vào cuối năm 2019, một chuyến đi đến đó cần có giấy phép của Bộ các vấn đề về người tị nạn của đất nước, sau đó là nhiều lớp giấy phép từ nhiều văn pḥng khác nhau của Liên Hợp Quốc, sau đó là một cuộc thẩm vấn ngắn của cảnh sát khi cuối cùng tôi đến bằng chuyến bay của Cơ quan Hàng không Nhân đạo Liên Hợp Quốc, sau đó là ánh mắt ngạc nhiên của các nhân viên Liên Hợp Quốc rằng tôi thậm chí đă đến được đó. Từ khu phức hợp rộng lớn và có tường bao quanh của Liên Hợp Quốc ở trung tâm của một thị trấn lều bùn đầy lo lắng—al-Shabab, chi nhánh tàn bạo của al-Qaida người Somali,

Rất ít nơi trên trái đất cho thấy sự mong manh của sự tồn tại của con người giống như Dadaab, một thảm họa nhân tạo cũng báo trước một tương lai có thể không xa, trong đó hầu hết mọi nơi khác trên Trái đất đều khô cằn, không có ǵ đặc biệt và tuyệt vọng. Đất khô và bằng phẳng, giống như cát hơn là đất—sau một trận mưa ngắn, những người tị nạn bắt đầu đào đất đă được nén chặt trên đường để sử dụng làm vật liệu xây dựng. Bên trong các trại, mê cung của những lối đi bộ quanh co được lót bằng những bức tường tranh tạm bợ xếp lớp trong những hộp dầu ăn bỏ đi của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, những hàng cờ Mỹ bằng kim loại lấp lánh trong ánh nắng sa mạc buồn tẻ.

Dadaab thời hiện đại là h́nh ảnh ngược lại đen tối của trải nghiệm của người Mỹ gốc Somali—đó là số phận mà từ đó những người Somali đến Hoa Kỳ như Omar đă được cứu thoát. Nhiều người tị nạn của các trại đă bị mắc kẹt trong sa mạc trong nhiều thập kỷ v́ họ không an toàn khi quay trở lại Somalia và v́ Kenya đă đặt ra các quy định nghiêm ngặt về nơi người tị nạn Somalia có thể sống và làm việc. Hầu hết cư dân Dadaab bị cấm sống bên ngoài các trại, nơi không có công viên, không có thư viện thực sự, ít trung tâm giải trí và ít ṭa nhà kiên cố. Dadaab không phải là một khu vực chiến tranh theo nghĩa chặt chẽ nhất. Nhưng nó gây ra một sự bế tắc tàn khốc: Rất ít người có thể rời đi, và cuộc sống của cư dân không thể tiến triển cho đến khi họ rời đi.

Nhiều người trong số những người tị nạn đă xuất hiện ở biên giới Kenya-Somali vào đầu những năm 90 chỉ để dành phần đời c̣n lại của họ chờ đợi chiến tranh kết thúc, hoặc chờ đợi những cơ hội tái định cư không bao giờ đến. Fardowso Abdullahi, người sinh ra ở trại Hagadera của khu vực và có cha mẹ từng là những người chăn gia súc ở Somalia, cho biết: “Chúng tôi đang ở trong một nơi giam cầm. “Chúng tôi không thể đi đâu cả.” Khi tôi đến đó vào năm 2019, các nước phương Tây chỉ cung cấp tổng cộng 975 suất tái định cư hàng năm cho những người tị nạn của Dadaab. “Có vẻ như thế giới đă mệt mỏi với các trại Dadaab,” Abdullah Ali Aden, chủ tịch được bầu của trại Dushale nói với tôi. “Rất nhiều người có được rất nhiều kiến ​​thức ở đây,” anh ấy nói thêm. “Kiến thức bạn có được là cách tồn tại trong cuộc sống khắc nghiệt. Thật không thể chịu nổi.”

'Dadaab không phải là một khu vực chiến tranh theo nghĩa chặt chẽ nhất.  Nhưng nó gây ra một sự bế tắc tàn khốc: Rất ít người có thể rời đi, và cuộc sống của cư dân không thể tiến triển cho đến khi họ rời đi.'  Trại tị nạn Dadaab ở Kenya, trại tị nạn lớn nhất thế giới, 2011.

'Dadaab không phải là một khu vực chiến tranh theo nghĩa chặt chẽ nhất. Nhưng nó gây ra một sự bế tắc tàn khốc: Rất ít người có thể rời đi, và cuộc sống của cư dân không thể tiến triển cho đến khi họ rời đi.' Trại tị nạn Dadaab ở Kenya, trại tị nạn lớn nhất thế giới, 2011. TONY KARUMBA/AFP QUA GETTY IMAGES

Anab Gedi Mohammed, con của một chủ cửa hàng nghèo thuộc gia tộc Darod, người đă bị các chiến binh của gia tộc đối thủ Hawiya phá hủy trong cuộc nội chiến, nói với tôi rằng tôi là nhà báo nước ngoài thứ năm mà cô ấy đă nói chuyện trong đời, kể cả một Al Jazeera, và rằng cô ấy đă có những cuộc tṛ chuyện gần như giống hệt nhau với tất cả chúng tôi khi nhớ lại 27 năm của cô ấy ở Dadaab. “Bạn không biết nó như thế nào trong trại đâu,” cô ấy nói bằng tiếng Anh khi tôi đứng cạnh cửa khu nhà nhỏ của cô ấy, chỉ một lúc nữa là rời đi. "Không có ǵ thay đổi."

Trong một thời gian ngắn, mọi người quan tâm đến Dadaab. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2018, Omar đă giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ cho Khu vực Quốc hội số 5 của Minnesota, đưa cô trở thành thành viên Quốc hội người Mỹ gốc Somali đầu tiên và là nữ nghị sĩ đội khăn trùm đầu đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Reuters , The Guardian và The Washington Post đều đưa tin rằng Omar và gia đ́nh cô đă sống ở Dadaab được bốn năm.

Kư ức về Ilhan Omar đọng lại ở đó. “Có những người nói với tôi rằng họ là hàng xóm của nhau vào năm 1994… họ có thể thấy cô ấy là một phụ nữ rất thông minh,” Ali Aden, một người tị nạn mà tôi gặp ở Ifo, một trong ba trại của Dadaab, kể lại. Người sửa chữa của tôi, một nhà báo của một trong những đài phát thanh của trại, nói rằng anh ta chắc chắn về địa chỉ cũ của gia đ́nh: khu A-7 của trại Ifo bụi bặm. “Ilhan đă ở đây,” Shardid Abdikadir, một người tị nạn và thương nhân tại khu chợ rộng lớn của Ifo, nói. Anh nhớ lại đă nh́n thấy cha của Omar ở đó. “Theo cách tôi nhớ, anh ấy là một người đàn ông rất cao. Tôi chưa gặp anh ấy, nhưng chúng tôi đă từng gặp nhau.”

Trên thực tế, Omar chưa bao giờ sống trong bất kỳ trại nào của Dadaab—cô ấy chỉ đến thăm trong một nhiệm vụ nhân đạo vào năm 2011—và bất kỳ kư ức nào về cô ấy ở đó đều không dựa trên các sự kiện có thật. Không rơ quan điểm cho rằng cô ấy đă dành thời gian ở Dadaab bắt đầu như thế nào, hoặc liệu bản thân Omar có từng cố gắng sửa chữa nhận thức sai lầm này hay thậm chí biết về nó hay không. Thay vào đó, gia đ́nh cô đăng kư tị nạn tại Utange, bên ngoài Mombasa, như cô kể lại trong hồi kư của ḿnh. Vào đầu những năm 90, bất kỳ trại tị nạn nào của Kenya đều là một nơi nghiệt ngă, và câu chuyện của Omar cho thấy những người quyết tâm có thể tiến xa như thế nào ngay cả khi dường như họ đă bị tước đoạt mọi cơ hội có thể có trong đời. Do đó, người Somali coi Omar như “một người anh em họ đă làm nên điều đó,” Mohammed Ibrahim, người sáng lập Phong trào Chống Chủ nghĩa Bộ lạc, cho biết. “Nó nói lên rất nhiều điều về chúng tôi. Chúng tôi là những người rất kiên cường.”

Cho đến khi cuốn hồi kư của cô được xuất bản, Omar chưa bao giờ công khai nói về những năm cô ở trại tị nạn Utange với bất kỳ chi tiết thực nào, đó có lẽ là một lư do khiến người ta có ấn tượng rằng cô đă sống ở Dadaab. Ngày nay, không có dấu hiệu bên ngoài nào cho thấy đă từng có một trại tị nạn ở Utange, nơi trông giống như bất kỳ khu ổ chuột nào khác ở ngoại ô Mombasa có nhiều bóng cọ. Việc Utange ở gần một trong những trung tâm thương mại và dân cư lớn của Kenya, nơi tự hào có một dải các khu nghỉ mát băi biển đẹp mắt và một khu phố cổ dày đặc các ṭa nhà do những người chinh phục Anh, Bồ Đào Nha và Ả Rập bỏ lại, khiến việc đóng cửa trại năm 1997 là điều không thể tránh khỏi. “Luôn có rào cản ngôn ngữ—không ai hiểu nhau,” Abdulla Ahmed, một người bán rong sống cạnh khu trại trước, trong và sau khi những người tị nạn ở đó, nhớ lại. “Nó đă dẫn đến những trận đánh nhau ở đây—nhà cửa của người dân ở cả hai bên đều bị tổn hại. Đó là lư do tại sao họ quyết định phải thanh lư trại.”

Đối với công chức và các cựu thành viên khác của giai cấp thống trị Somali, thông thường đăng kư ở Utange và sống ở một nơi khác. “Hầu hết những người sống ở Utange, họ nói với tôi rằng họ sống ở Mombasa. Mohamed Ingiriis, giáo sư thỉnh giảng tại Trung tâm Lănh đạo Châu Phi tại Đại học King's College ở London, người lớn lên ở Somalia và sống ở đó cho đến năm 2002, cho biết giới tinh hoa - những người nghèo sống trong các trại.

Willis Okech, một nhà báo của tờ The Standard , người đă đưa tin về ḍng người tị nạn đổ vào Mombasa vào những năm 1990, cũng có một hồi ức tương tự. “Những người tị nạn Utange là những người nghèo. Hầu hết trong số họ đă được chuyển đến Dadaab. Những người giàu có không bao giờ được chuyển nhượng. Họ có thể nhận được một ID tị nạn cho phép họ ở lại bất cứ nơi nào họ muốn.” Yaxia Osman, cựu chủ cửa hàng ở Mogadishu, nhớ lại rằng “mọi người sống ở cả hai phía—bạn sống trong trại, nhưng bạn cũng sống ở thành phố.”

Omar viết trong hồi kư của ḿnh rằng cô đă đoàn tụ với cha ḿnh ở Utange vào năm 1992, sau chuyến bay đưa cô từ bờ biển phía nam Somalia đến Kenya. Trại là một nơi cực kỳ đau khổ: Omar bất lực nh́n người d́ yêu quư của ḿnh qua đời v́ bệnh sốt rét. Cha cô đă gửi gia đ́nh đến cơ quan tị nạn của Liên Hợp Quốc với tư cách là ứng cử viên tái định cư. Sau cuộc phỏng vấn với nhân viên Liên Hợp Quốc, Omar và gia đ́nh ruột thịt của cô ấy “đă kiếm được một trong những tấm vé vàng đến Mỹ,” cô ấy viết, không giải thích ǵ thêm—cô ấy không nói thành viên nào trong gia đ́nh đă giành được “chiếc vé vàng” hay điều ǵ đă làm. gia đ́nh cô ấy là một trường hợp tái định cư lư tưởng theo quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ, hoặc quá tŕnh này mất bao lâu kể từ khi nộp đơn ban đầu cho đến khi cấp thị thực tị nạn cho gia đ́nh cô ấy.

Omar đă đến thăm Dadaab trong nhiệm vụ cứu trợ đó vào năm 2011, nhưng cô ấy không có mặt ở Utange. Vào cuối năm 2019, một trong những công tŕnh duy nhất c̣n sót lại sau sáu năm làm trại tị nạn của khu vực là một ṭa nhà một tầng, có mái che, nửa dưới vẫn được sơn màu xanh lam của Liên hợp quốc. Bây giờ nó là một trại trẻ mồ côi, nơi trẻ em chơi trên chiếc xích đu rỉ sét và chiếc Volkswagen Beetle hỏng hóc.

Francis Kinyua, giám đốc trại trẻ mồ côi, kéo một chiếc ghế nhựa và đề nghị kể cho tôi nghe “lịch sử của nơi này” khi chúng tôi ngồi dưới những tán cọ cao đung đưa. “Trước những người tị nạn, cuộc sống gần như ch́m trong giấc ngủ. Chỉ có cây cối, không có tiếng động.” Anh ta vui vẻ cáo buộc những người tị nạn buôn lậu vũ khí vào trại nhưng cũng nói rằng anh ta ngưỡng mộ những người hàng xóm cũ của ḿnh. “Thế giới đang trở thành một ngôi làng và nền kinh tế toàn cầu, và người Somalia đă biết điều đó từ lâu trong khi những người khác không biết.” Anh ta tuyên bố rằng những người tị nạn vẫn duy tŕ các mối quan hệ kinh doanh ở nước ngoài sẽ vận chuyển đồ điện tử tiêu dùng đến Mombasa. Ông tuyên bố: “Với sự gia nhập của người Somalia, hầu hết mọi hộ gia đ́nh đều sở hữu một chiếc TV hoặc đài. Người đàn ông chưa bao giờ nghe nói về Ilhan Omar.

Dadaab thời hiện đại là h́nh ảnh ngược lại đen tối của trải nghiệm người Mỹ gốc Somali—đó là số phận mà từ đó những người Somali đến Mỹ như Omar đă được cứu.

https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country

Dù họ đến từ đâu, th́ việc đến được Hoa Kỳ vào giữa những năm 90 là một trong những kết quả khả thi nhất đối với một người tị nạn Somali—Mỹ đă tiếp nhận 2.506 người tị nạn Somali vào năm 1995, năm Omar viết rằng gia đ́nh cô chuyển đến Virginia.

Thông thường, Liên Hợp Quốc cung cấp cho các quốc gia cung cấp tái định cư tên của các ứng cử viên tiềm năng, một quy tŕnh tốn nhiều công sức và quan liêu đôi khi có thể kéo dài hơn một thập kỷ. Nhưng vào giữa những năm 90, Hoa Kỳ thường cung cấp các vị trí có sẵn để tiếp nhận các đối tác chính trị hoặc an ninh cũ hoặc để đoàn tụ gia đ́nh của những người đă đến Hoa Kỳ.

Việc Mỹ chấp nhận những người Somalia tản cư không hoàn toàn là một hoạt động nhân đạo. Các siêu cường hoạt động ở quy mô rộng lớn đến mức những thất bại của chúng thường ẩn chứa mầm mống của một số cơ hội trong tương lai. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nhận ra rằng những người tị nạn Somali có thể là một kênh liên lạc và bảo trợ có thể khai thác để di chuyển từ tây sang đông, với những người Somali ở Hoa Kỳ đóng vai tṛ như một con đường làm sẵn vào khoảng trống vô chính phủ bao gồm bờ biển dài nhất châu Phi, gần một trong những bờ biển dài nhất thế giới. các nút thắt hàng hải quan trọng. Một cộng đồng người Somali hải ngoại an toàn, thịnh vượng và thân Mỹ có thể trở thành tài sản cho các nhà hoạch định quốc pḥng và t́nh báo của Hoa Kỳ, một phương tiện để theo đuổi các lợi ích an ninh của Mỹ trong một khoảng trống không quốc gia, nơi có nửa tá quốc gia tranh giành ảnh hưởng.

Omar đă được bảo vệ một cách đáng chú ư trong việc giải thích hoàn cảnh gia đ́nh cô đến Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 2018, vài tháng sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ, cô ấy đă cho phóng viên Stephen Montemayor của Minneapolis Star-Tribune xem “những bức ảnh chụp bằng điện thoại di động về các tài liệu gia đ́nh cô ấy nhập cảnh vào Hoa Kỳ vào năm 1995 sau khi chạy trốn khỏi cuộc nội chiến ở Somalia,” liệt kê cha cô ấy và sáu anh chị em khác là họ hàng. . Montemayor đă viết rằng những tài liệu này là “các biểu mẫu phê duyệt tái định cư cho người tị nạn và thẻ căn cước”, nhưng cũng lưu ư rằng ông không có cơ hội xác thực hoặc t́m hiểu sâu về chúng. Trong một email trao đổivới luật sư Minneapolis và nhà văn bảo thủ Scott Johnson, Montemayor đă viết rằng “Omar không cho phép tôi ghi lại tên hoặc cung cấp bản sao của các h́nh ảnh.”

Omar viết trong cuốn hồi kư của ḿnh rằng cô đến New York cùng cha ḿnh, nơi cô có ấn tượng ban đầu rất tiêu cực về Hoa Kỳ là bẩn thỉu, đầy h́nh vẽ bậy và nhẫn tâm. Cô ấy nhớ lại sự ghê tởm của ḿnh trong một thời gian dài: “Được hứa hẹn một điều không tưởng chỉ để được đưa đến một thành phố hoặc thị trấn có thể có ít rác và tội phạm hơn một chút và có nhiều ṭa nhà hơn nơi bạn đến là điều khiến bạn mất phương hướng và thất vọng.” Ở một khía cạnh nào đó, nước Mỹ thậm chí c̣n tồi tệ hơn nơi cô ấy đến: “Khi chúng tôi sống ở Somalia, ở thành phố lớn, thậm chí ngay cạnh khu chợ ngoài trời lớn, tôi chưa bao giờ thấy một người ngủ trên đường trong khi những người khác chỉ đi loanh quanh. ngày của họ. Khái niệm đó không tồn tại trong xă hội công xă của đất nước tôi.”

Trong hồi kư của ḿnh, Omar không xem xét khả năng việc cô không nh́n thấy hoặc nhận thấy t́nh trạng nghèo đói cùng cực, điều chắc chắn đă tồn tại ở Mogadishu ngay cả trước khi nó rơi vào t́nh trạng hỗn loạn, là một chức năng của tuổi trẻ hoặc sự giáo dục đặc quyền, kín đáo của cô, hơn là bằng chứng. của sự đoàn kết xă hội vượt trội, so với Hoa Kỳ, của một Somalia bên bờ vực của ba thập kỷ nội chiến. Cô tiếp tục: “Ở Kenya, chúng tôi thấy những nhóm thanh niên lang thang trên phố trong bộ quần áo bẩn thỉu. “Những người lớn nói về việc họ nghiện ma túy như thế nào, nhưng họ không có vẻ hoàn toàn chán nản như bà lăo mà tôi nh́n thấy đang nằm trên băng ghế công viên ở thành phố New York với chiếc xe hàng duy nhất làm vật bảo vệ. Những đứa trẻ đường phố Kenya không bị đối xử như những đồ vật để đi loanh quanh và phớt lờ.

Bắc Virginia, nơi đầu tiên gia đ́nh Omar định cư, đă có một cộng đồng nhỏ người Somalia từ đầu những năm 1980. Trong thời của Barre, giới thượng lưu Somali có cơ hội được học tập ở Hoa Kỳ thường chọn đến Washington, DC, nơi có đại sứ quán của nước này. Một số tay sai hàng đầu của Barre cuối cùng đă sống ở khu vực DC rộng lớn hơn sau chiến tranh, bao gồm Hussein Kulmia và Ali Samatar, hai trong số các cựu phó tổng thống của Barre, người sau này được coi là một trong những cấp phó tàn bạo nhất của nhà độc tài. Yusuf Ali Abi, một đại tá quân đội từng tham gia phá hủy Hargeisa, đă lặng lẽ sống ở khu vực này trong 17 năm cho đến khi bị kiện v́ cáo buộc vi phạm nhân quyền trong quá khứ vào năm 2019.

Hầu hết người Somalia ở khu vực DC không quá nổi bật. “Vào thời điểm đó, 90% trong số họ là tài xế taxi,” một thành viên của cộng đồng phía bắc Virginia có cha từng là quan chức an ninh cấp cao thời Barre giải thích. “Các đại sứ đă kết thúc ở đây. Nhưng ai là người đă đến Canada, Châu Âu. Washington rất cứng rắn, anh bạn. Ở Washington bạn phải làm việc.” Tuy nhiên, một lợi ích của nước Mỹ vào giữa những năm 90 là một người tị nạn duy nhất có thể tài trợ cho việc tái định cư của nhiều thành viên trong gia đ́nh. Hàng trăm người sẽ đến thị trấn và sau đó rời đi Minneapolis trong ṿng vài tháng. Nguồn tin cho biết Omar có gia đ́nh ở khu vực DC, trong đó có một người họ hàng là nữ lớn tuổi từng làm việc cho Ngân hàng Trung ương Somali dưới thời Barre; một cựu chính trị gia cấp cao ở Nairobi trong chính phủ Somali thời hậu nội chiến nhớ lại cuộc gặp gỡ người họ hàng Omar này ở miền bắc Virginia vào những năm 2000. Mặc dù Nur Said đă t́m được việc làm tại một sân bay địa phương, nhưng thời gian lưu trú của gia đ́nh ở phía bắc Virginia tương đối ngắn. Theo hồi kư của cô, ông ngoại của Omar đă định cư ở Minneapolis, mặc dù con đường của ông từ Kenya đến thành phố miền Trung Tây hầu như không giải thích được.

Đối với những người tị nạn Somali ở cả hai bờ biển, Minnesota là vùng đất thực sự của cơ hội trong những năm 1990. Mohamed Amin Ahmed, người sáng lập Average Mohamed, một tổ chức phi lợi nhuận chống chủ nghĩa cực đoan ở Twin Cities, cũng thực hiện hành tŕnh từ Virginia đến Minneapolis không lâu sau khi đến Hoa Kỳ. Anh ấy nói rằng một người không nói tiếng Anh đến Twin Cities vào buổi sáng có thể có một công việc 16 đô la mỗi giờ với tư cách là công nhân xưởng đúc khi màn đêm buông xuống. Đối với người Somalia, trận ḥa vượt xa việc làm dễ dàng. Như Ahmed đă nói: “Khi tôi từ Virginia đến và xuống máy bay, một anh chàng Somali đă giúp mang hành lư cho tôi. Người lái xe taxi là người Somali. Nhân viên lễ tân khách sạn là người Somali. Nhà thờ Hồi giáo là người Somali. Tôi đă đến một nhà hàng Somali. Đó là cách tôi biết đó là nhà.”

Ngày nay, Thành phố đôi là ngôi sao lớn nhất trên bản đồ toàn cầu của cộng đồng người Somali hải ngoại—có ảnh hưởng chính trị hơn London, giàu có hơn Toronto, được cho là quan trọng hơn cả Nairobi, mặc dù diện tích của nó chỉ bằng một phần nhỏ. Trong một thế giới bị thu nhỏ bởi du lịch hàng không giá rẻ, công nghệ truyền thông hiện đại và sự phức tạp thường không lường trước được trong chính sách của Mỹ, một tranh chấp chính trị hoặc xă hội phức tạp ở một quốc gia xa xôi có thể tạo ra những nền văn hóa phụ mới và thường sôi động ở những nơi trước đây ít hoặc không có mối liên hệ nào với nơi xuất phát của các cộng đồng đó.

Sau khi nội chiến bùng nổ, người Somalia coi Mỹ là điểm đến tốt hơn châu Âu; nó được coi là ít phân biệt chủng tộc hơn và không được coi là khuyến khích sự lười biếng như cách mà các xă hội châu Âu vẫn tin tưởng. Nhận thức đó tồn tại trong những người c̣n nhớ những năm đầu tái định cư. Hashi Shafi, một nhà hoạt động cộng đồng ở Minneapolis, cho biết: “Ở đó, họ không gọi bạn là người nhập cư, họ gọi bạn là người nước ngoài. “Ở Mỹ, [người tị nạn] chỉ nhận được tám tháng phúc lợi. Điều đó khiến nhiều người Somalia trở thành những người làm việc chăm chỉ.”

Người Somalia vẫn thắt chặt bất kể họ hạ cánh ở đâu. “Kết cấu xă hội rất mạnh,” Ahmed Asmali, một doanh nhân và lănh đạo cộng đồng ở Eastleigh, trung tâm thành phố Somali ồn ào của Nairobi, cho biết. “Nếu ai đó gửi 100 đô la đến Ṭa tháp đôi,” anh ấy nói, nêu tên một khu chung cư gần đó, “số tiền đó sẽ được chia cho 100 người.”

Do tính đặc thù của ngôn ngữ và văn hóa Somali, sức mạnh của mối quan hệ gia đ́nh và thị tộc, và cú sốc mất quê hương vẫn c̣n vang vọng, các trung tâm hải ngoại không cảm thấy quá xa nhau về mặt địa lư. Họ cũng không cảm thấy xa Somali, ngay cả khi Mogadishu cách xa nửa hành tinh. Yussuf Hasan Abdi, thành viên quốc hội của Eastleigh, nói rằng Nairobi có những nơi lui tới cụ thể cho các phe phái chính trị, nhà hàng và hành lang khách sạn của Somali, nơi những người ủng hộ một đảng hoặc nhân vật chính trị nhất định tụ tập. Đây là đặc điểm của các trung tâm hải ngoại khác, kể cả ở Hoa Kỳ. “Nó ở khắp mọi nơi — ngay cả ở Minnesota và ở London, nó được vạch ra chính xác,” Abdi nói với tôi khi tôi gặp anh ấy ở Nairobi vào năm 2019. “Đó là tấm gương phản chiếu các vấn đề của Somalia.”

Phụ nữ Somali học tại Học viện Quốc tế Minnesota ở St. Paul, 2000

Phụ nữ Somali học tại Học viện Quốc tế Minnesota ở St. Paul, 2000 JOEY MCLEISTER/STAR TRIBUNE QUA GETTY IMAGES

Trước vụ tấn công 11/9, khiến người Mỹ theo đạo Hồi thuộc mọi thành phần phải thức tỉnh chính trị, người Somalia ở Minnesota có “tâm lư vali”, Shafi nói - một niềm tin ngầm rằng nước Mỹ không phải là ngôi nhà lâu dài của họ. Ngay cả bây giờ, những người từ các khu vực hoặc thị tộc khác nhau có xu hướng gắn bó với trung tâm đời sống cộng đồng của riêng họ ở Minneapolis: The Ogaden có trung tâm mua sắm gần Đại lộ Chicago và Phố 24; Hawiya có Karmel Mall lớn hơn cách đó một dặm, và Majeerteen có Starbucks đồ sộ ở Cedar-Riverside, bên cạnh một trung tâm mua sắm của riêng họ.

Karmel Mall là một công ty khổng lồ bốn tầng thuộc sở hữu của Basim Sabri, một nhà phát triển người Mỹ gốc Palestine và là một trong những người ủng hộ hàng đầu của Omar tại địa phương; vào một ngày điển h́nh, các công ty du lịch, cửa hàng tạp hóa, quầy chuyển tiền, quán cà phê, cửa hàng y học cổ truyền và nhà thờ Hồi giáo là nơi giải trí đáng tin cậy ở những nơi cách xa hàng ngh́n dặm. Các trung tâm mua sắm có ít cửa sổ; chỉ người Somalia có xu hướng đến với họ.

Chiến tranh kéo dài trong cộng đồng người Somali, theo những cách thường vô h́nh. Trước khi trở thành một nhà giáo dục và tác giả, Ahmed Yusuf là một nhân viên xă hội, người thường hỗ trợ những người tị nạn Somali ở Minnesota, nhiều người trong số họ vẫn đang phải đối mặt với chấn thương của cuộc xung đột. Anh ta cực kỳ nghi ngờ một số người trong số họ đă phạm tội ác ở Somalia. “Tôi có thấy một người nào nói rằng họ đă giết bất kỳ ai không? Không. ... Bản thân tôi có đối đầu với ai không? KHÔNG." Dù sao th́ đối đầu cũng có thể không mang tính xây dựng. Như Yusuf lưu ư, “Cuối cùng, mọi người đều trở thành nạn nhân lúc này hay lúc khác.” Kết quả là, người Somalia ở Minnesota có “kiểu tính cách lưỡng cực” muốn bỏ lại quá khứ nhưng không bao giờ cho phép vết thương của ḿnh lành hẳn.

Tại London năm 2019, Fatima Hagi, một nhà tổ chức Tuần lễ Somali ở London năm đó, cũng có những phản ánh tương tự. Tôi đă nói chuyện với cô ấy ngay sau buổi biểu diễn vở kịch có tựa đề Home tại sự kiện năm đó, vở kịch khám phá mối quan hệ giữa ba phụ nữ Anh Somali trẻ tuổi, thế hệ thứ nhất, những người không bao giờ hoàn toàn thoải mái trong gia đ́nh hoặc xă hội của họ nói chung. Hagi nói: “Chúng tôi có thái độ không lo lắng về mọi thứ, hạnh phúc khi được sống, biết ơn. “Chúng tôi không dành một chút thời gian để thừa nhận nỗi đau mà tất cả chúng tôi mang theo.”

Cộng đồng Minnesota Somali tạo nên sự khác biệt so với các trung tâm khác của cuộc sống cộng đồng người di cư thông qua việc nhanh chóng đạt được ảnh hưởng chính trị. Ibrahim Hirsi, Ph.D. ứng cử viên nghiên cứu lịch sử nhập cư tại Đại học Minnesota. “Điều đă mang cộng đồng này đến đây là chính trị—theo một cách nào đó, chính trị bị phá vỡ.”

Bước đột phá chính trị ban đầu đối với cộng đồng người Somali ở Minnesota diễn ra vào năm 2010 khi Hussein Samatar giành chiến thắng trong cuộc đua vào hội đồng trường học Minneapolis, trở thành quan chức dân cử người Somali đầu tiên của thành phố. Cuộc bầu cử của Abdi Warsame vào Hội đồng thành phố năm 2013 thậm chí c̣n là một dấu hiệu sống động hơn về sức mạnh ngày càng tăng của cộng đồng và sự tiến bộ mà nó thể hiện.

 

Với tư cách là những chủ doanh nghiệp nhỏ hướng về gia đ́nh và tôn giáo, những người gần đây đă phải làm việc cực nhọc dưới chế độ độc tài xă hội chủ nghĩa, người Somalia đương nhiên là một khu vực bầu cử của Đảng Cộng ḥa, ít nhất là trên giấy tờ. Trên thực tế, bên ngoài Florida, có rất ít cộng đồng thiểu số thành thị thuộc bất kỳ nguồn gốc chủng tộc hoặc sắc tộc nào ở Hoa Kỳ hầu như không hoàn toàn ủng hộ Đảng Dân chủ — Đảng Cộng ḥa không liên quan ở quy mô địa phương ở Minneapolis, trong khi đảng quốc gia được coi là, và vẫn được nhiều người coi là một doanh nghiệp dành riêng cho người da trắng và theo đạo Thiên chúa. Người Somalia đă trở thành một ngoại lệ tiềm năng trong liên minh Đảng Dân chủ địa phương: Một cộng đồng gồm những người tị nạn chiến tranh Hồi giáo bảo thủ về mặt tôn giáo với những nhu cầu và giá trị riêng của họ.

Người Somalia nhanh chóng trở thành một trong số những đảng viên Đảng Dân chủ nhiệt t́nh nhất ở Minnesota, một phần v́ đảng địa phương được cấu trúc theo hướng phân bổ sự bảo trợ - giống như tất cả các hoạt động chính trị có năng lực, bằng cách này hay cách khác - và sẵn sàng cho phép người nhập cư thăng tiến trong hàng ngũ của đảng. Các địa điểm họp kín ở Cedar-Riverside, khu vực lân cận phía đông nam Minneapolis có khu phức hợp nhà ở công cộng cao tầng, nơi nhiều người Somalia định cư, từ chỗ có vài chục người tham gia vào đầu những năm 90 đến vài trăm người trong 20 năm sau. Một trong những công việc t́nh nguyện đầu tiên của Omar trong lĩnh vực chính trị là đưa người Somalia đi bầu cử: Năm 2012, cô trở thành lănh đạo cuộc họp kín người Somalia của Đảng Lao động Nông trại Dân chủ Minnesota (DFL), chi nhánh cấp bang của Đảng Dân chủ. AK Hassan, hiện là thành viên của ủy ban công viên Minneapolis,

Cô ấy đă để mắt đến một sự nghiệp trong chính trị. Vào năm 2012, một nhà hoạt động cộng đồng tên là Habon Abdulle bắt đầu tổ chức các cuộc họp của những phụ nữ quan tâm đến việc tham gia vào quá tŕnh chính trị, các cuộc tụ họp mà Shafi nói đă được tổ chức tại văn pḥng của anh ta. Có khoảng nửa tá người tham dự thường xuyên, một nhóm nhỏ và nghiêm túc bao gồm Omar, một sinh viên mới tốt nghiệp Đại học Bang North Dakota, lúc đó mới ngoài 30 tuổi.

Gần một thập kỷ trước, trong những ngày đầu tiên Omar c̣n là người của công chúng, Đảng Dân chủ Minnesota và nhà hoạt động cộng đồng người Somali, Mohamed Amin Kahin, nhớ đă nh́n thấy cô ở khắp mọi nơi. “Không một sự kiện nào trong cộng đồng Somali mà cô ấy không tham dự. Cô ấy đang tự chuẩn bị,” Kahin nhớ lại. Cô ấy đă ḥa nhập, làm quen với mọi người. Cô ấy biết mọi người nắm giữ một số quyền lực nhỏ trong cộng đồng. Cô ấy biết ai ủng hộ ḿnh, ai không.”

Đồng thời, Omar tham gia vào chương tŕnh DFL tại địa phương của cô ấy. Sau khi tham dự một cuộc họp kín vào năm 2012, cô đă lọt vào mắt xanh của một nhóm các nhà hoạt động đang t́m cách thay thế phó giám đốc của Quận Thượng viện Tiểu bang thứ 59 của DFL. Họ không biết Omar là ai, nhưng trong DFL, điều đó không phải lúc nào cũng quan trọng. Đảng Dân chủ của Minnesota là sự trở lại của một kỷ nguyên dân chủ Hoa Kỳ có nhiều người tham gia hơn và ít tham nhũng hơn, và không có ǵ lạ khi tổng số người mới gia tăng nhanh chóng. Một trong những nhà hoạt động đă tuyển dụng Omar cho biết: “Theo những ǵ tôi biết, cô ấy thậm chí c̣n không biết ư nghĩa của việc trở thành phó chủ tịch quận. Sau đó, họ đă gặp cô ấy để giải thích vị trí và đánh giá sự quan tâm của cô ấy. “Thực sự là quanh đây không ai biết cô ấy cho đến khi chúng tôi giới thiệu cô ấy tại hội nghị quận thượng viện.”

Công việc của DFL đă thu hút sự chú ư của một trợ lư cho ứng cử viên Hội đồng Thành phố 28 tuổi tên là Andrew Johnson, một kỹ sư hệ thống của Target. Hoạt động như một người cấp tiến, anh ấy đặt mục tiêu trở thành thế hệ thiên niên kỷ đầu tiên được bầu vào hội đồng và đă thuê Omar làm người quản lư chiến dịch của ḿnh vào đầu năm 2013. Omar đă từng làm điều phối viên tiếp cận cộng đồng về dinh dưỡng cho Bộ Giáo dục Minnesota, và vị trí của cô ấy là người quản lư chiến dịch của Johnson, trong đó cô ấy tổ chức một chiến dịch gơ cửa đầy tham vọng và chắc chắn sẽ chiến thắng, là công việc quan trọng đầu tiên của Omar trong lĩnh vực chính trị. Sau đó, cô được thuê làm trợ lư chính sách của Johnson tại Ṭa thị chính.

Omar không chỉ muốn trở thành một nhân viên của Hội đồng Thành phố. Trong cuốn hồi kư của ḿnh, cô ấy viết rằng cô ấy sợ “mất quyền tự chủ khi làm việc cho một quan chức dân cử.” Trong thực tế, cô có chút lo lắng về. Johnson biết rằng Omar đă từng là người tham gia các chiến dịch địa phương và mong đợi cô ấy sẽ tiếp tục là một người ngay cả khi là phụ tá của Ṭa thị chính. “Thật tốt khi nhận thức được những rắc rối có thể phát sinh,” Johnson nói với tôi vào cuối năm 2019. “Nhưng bạn biết đấy, cô ấy được tự do.”

Vào năm 2016, Preya Samsundar, khi đó là phóng viên của Alpha News và hiện là nhân viên truyền thông của GOP, đă phát hiện ra rằng Ahmed Hirsi, cha của những đứa con của Omar, đă liệt kê một địa chỉ trên đơn đăng kư kinh doanh năm 2009 giống hệt với địa chỉ mà Omar và một người đàn ông tên là Ahmed Nur Cho biết Elmi đă sử dụng trên giấy đăng kư kết hôn của họ ba tháng trước đó. Điều này cho thấy rằng Ahmed Hirsi đă có lúc sống hoặc làm việc tại một địa chỉ mà Omar đă chia sẻ với người thứ hai, Elmi, người vào thời điểm đó là chồng hợp pháp của cô. Giấy chứng nhận kết hôn mà Samsundar có được dường như cho thấy đám cưới của Elmi và Omar được tiến hành bởi một mục sư Tin lành.

Hirsi gặp Omar vào cuối những năm 1990, khi cô c̣n ở tuổi thiếu niên. Trong cuốn hồi kư của ḿnh, Omar viết rằng cô và Hirsi đă đăng kư kết hôn tại Hạt Hennepin của Minnesota vào năm 2002 nhưng chưa bao giờ thực sự được cấp giấy đăng kư kết hôn. Như Omar giải thích sau này, họ tổ chức đám cưới theo truyền thống Hồi giáo vào năm đó và sau đó kết thúc cuộc hôn nhân vào năm 2008—“truyền thống” trong trường hợp này có nghĩa là một cuộc hôn nhân không có đăng kư hoặc tư cách pháp nhân. Omar và Hirsi có đứa con thứ ba vào năm 2012, khi Omar vẫn c̣n kết hôn hợp pháp với Elmi, người mà cô ấy đă không ly hôn hợp pháp cho đến năm 2017. Trên hơn chục bức thư chia buồn công khai từ các thành viên của cộng đồng người Somali Thành phố đôi do David Steinberg chọn lọc — một số chúng từ những người ủng hộ nổi bật của Omar's—Elmi là họ của người cha quá cố của cô, Nur Said.

Những cái họ giống hệt nhau có thể là ngẫu nhiên, nhưng chúng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tuyên bố từng được lan truyền rộng răi rằng Omar kết hôn với anh trai cô, có lẽ để giúp anh ta có được thẻ xanh của Hoa Kỳ, điều này sẽ vi phạm luật nhập cư của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc thực thi bất kỳ tội ác nào mà Omar có thể đă phạm phải khi kết hôn với Elmi sẽ là một sự chọn lọc không công bằng. Cơ hội để có được quốc tịch Hoa Kỳ, giống như bất kỳ nguồn tài nguyên khan hiếm nào khác, là đối tượng thường xuyên của hành vi gian lận tiềm ẩn và rất thường không bị trừng phạt, kể cả đối với những người tị nạn: Năm 2008, Hoa Kỳ tạm dừngmột chương tŕnh nhằm đoàn tụ gia đ́nh của những người tị nạn Đông Phi khi xét nghiệm DNA cho thấy một tỷ lệ lớn những người mới đến trên thực tế không có quan hệ họ hàng với họ ở Mỹ. Trong mọi trường hợp, Hirsi và Omar kết hôn hợp pháp vào năm 2018, ngay sau khi cô ly hôn với Elmi, sau đó ly hôn vào cuối năm 2019 trong bối cảnh có tin Omar đang có mối quan hệ với Tim Mynett, người đứng đầu đă kết hôn của E Street Group, một công ty tư vấn chính trị nhận được 2,9 đô la triệu đô la giải ngân từ chiến dịch tranh cử quốc hội năm 2020 của Omar, chiếm khoảng 51% trong số hơn 5,6 triệu đô la chi tiêu bầu cử của cô ấy, theo hồ sơ có sẵn trên trang web của Ủy ban Bầu cử Liên bang. Mynett hiện là chồng của Omar. (Theo trang web của FEC, công ty tư vấn nhận được phần lớn chi tiêu liên quan đến tiếp cận và quảng cáocho chiến dịch năm 2022 của Omar là Authentic, một công ty do Mike Nellis, cựu cố vấn cấp cao cho chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 thất bại của Phó Tổng thống Kamala Harris đứng đầu.)

Đến giữa năm 2020, có một bộ phận ủng hộ Hirsi đáng chú ư trong cộng đồng người Mỹ gốc Somali ở Minnesota đă ghi công Hirsi, chồng cũ hiện tại của Omar, với toàn bộ sự nghiệp chính trị của cô ấy. T́nh cảm địa phương phổ biến đáng ngạc nhiên này là bảo trợ cho Omar, nhưng phù hợp với quan điểm chung của những người Somalia ở Minneapolis, London và Kenya rằng Hirsi đă từng là một người thúc đẩy và gây chấn động cộng đồng, một người muốn trở thành người dàn xếp chính trị và là người hướng đến mục tiêu trở thành một nhân vật có tầm cỡ. ở Somalia, nơi các chính trị gia sử dụng Minneapolis như một nguồn tài trợ giống như các nhà lănh đạo Israel sử dụng New York và Los Angeles.

Hirsi đă làm việc với tư cách là một nhà hoạt động với Kajoog, một tổ chức văn hóa và dịch vụ cộng đồng của người Somali ở Minneapolis, cho đến khi có sự chia rẽ gay gắt vào năm 2014. Một số người coi Hirsi nói chung là ủng hộ người Somali, không có bất kỳ liên minh chính trị hay gia tộc quan trọng nào. Trong 11 năm, Hirsi cũng làm giao dịch viên ngân hàng với Wells Fargo, một trong số các tổ chức tài chính hoạt động ở khu vực Minneapolis đă bị buộc phải ngừng chuyển tiền đến Somalia vào đầu những năm 2010 trong bối cảnh chính phủ Hoa Kỳ lo ngại về tài trợ khủng bố. Đến năm 2013, người Mỹ gốc Somali đă gửi 208 triệu đô la mỗi năm dưới dạng kiều hối trên sổ sách đến Somalia; không có hệ thống ngân hàng Twin Cities có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển tiền này, người Somalia trong khu vực bắt đầu gửi tiền mặt đến đất nước trong vali .

Hoạt động tích cực của Hirsi thường đưa anh ta ra ngoài Thành phố đôi. Anh ấy đă cùng Kajoog đến Kenya, gặp Tổng thống Somali Hassan Sheikh ở DC và tham dự một diễn đàn dành cho cộng đồng người Somali hải ngoại toàn cầu được tổ chức tại Istanbul vào năm 2014, một sự kiện do chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đồng tài trợ. Là một trong những thành viên trẻ đáng chú ư của thành phố thuộc gia tộc Hawiya, Hirsi có tiềm năng sử dụng cho các thành viên gia tộc hoạt động chính trị đến thăm Thành phố đôi, bao gồm cả Tổng thống Somalia lúc bấy giờ là Hassan Sheikh, người đă giành lại chức vụ tổng thống vào tháng 5 năm 2022. “Khi Hassan Sheikh đến , anh ấy đă liên lạc với bộ tộc của ḿnh ở đây,” một nhà hoạt động chính trị người Mỹ gốc Somalia lâu năm ở Minneapolis cho biết. “Hirsi là một trong những t́nh nguyện viên.” Dưới sự hướng dẫn của Hashi Shafi, Hirsi đă làm việc trong một ủy ban chào đón Sheikh đến Minneapolis và sắp xếp chỗ ở cho tổng thống và đoàn tùy tùng của ông.

Cũng tham gia vào bữa tiệc chào mừng của Sheikh c̣n có một nhà hoạt động thông minh và ham học hỏi, đồng thời là nhân viên của Hạt Hennepin tên là Mohamed Keynan, người được biết đến ở cả địa phương và trong số những người Somali hải ngoại gắn bó với tư cách là người ủng hộ cho Puntland, một trong những khu vực tự trị của Somalia đă từng được thành lập. bị khóa trong mối quan hệ gay gắt với chính quyền trung ương đang thất bại của đất nước, và là nơi trở thành tâm điểm của các nỗ lực của Lầu Năm Góc ở vùng Sừng châu Phi trong bối cảnh sự trỗi dậy của al-Shabab và các phong trào thánh chiến khác.

Keynan kết hôn với Sahra Noor, chị gái của Omar. Cùng với bố vợ, Nur Said, Keynan là một trong 35 người kư ban đầu vào tuyên bố năm 2012 ủng hộ quyền tự trị của Jubaland. Đến năm 2015, anh làm việc cho Tổng thống Sheikh với tư cách là quan chức truyền thông cấp cao. Có thể lần đầu tiên anh ấy được chính phủ Somalia chú ư thông qua Talo iyo Tusaale, một Tập đoàn Google, hiện hầu như không hoạt động, với hơn 1.000 thành viên, nơi những người Somalia từ khắp nơi trên thế giới tụ tập để nói chuyện chính trị. Listserv là một trong những cơ sở tuyển dụng được biết đến của giới tinh hoa Somali cho các tài năng chính trị tiềm năng—cái tên này tạm dịch là “lời khuyên và tấm gương”. Có những kênh khác như vậy dành cho người di cư, đặc biệt là ở Minnesota. Diễn đàn Fagaaraha, nơi tổ chức các cuộc thảo luận về các vấn đề chính trị của Somali tại Thành phố đôi, được thành lập bởi một bộ trưởng lao động tương lai của Somali và được theo dơi chặt chẽ ở Đông Phi. “Mọi người xây dựng sự nổi tiếng thông qua nó,” một nguồn tin Somali có trụ sở tại Nairobi nói về Fagaaraha. "Đó là một cửa ngơ vào chính trị."

Mohamud Noor, trong chiến dịch tranh cử đại diện bang năm 2014 chống lại người đương nhiệm 21 nhiệm kỳ

Mohamud Noor, trong chiến dịch tranh cử đại diện tiểu bang năm 2014 chống lại người đương nhiệm 21 nhiệm kỳ © RICHARD TSONG-TAATARII/MINNEAPOLIS STAR TRIBUNE/ZUMA WIRE

Omar cũng hoạt động tích cực trong cộng đồng Somali vào đầu những năm 2010. Một nhân vật trong cộng đồng nhớ đă nh́n thấy cô ấy tham dự một buổi họp mặt ủng hộ Jubaland vào năm 2011. Vài tháng sau cuộc tṛ chuyện của chúng tôi vào cuối năm 2019, nguồn tin đă liên lạc lại với tôi để thúc giục Tablet không nêu tên anh ấy. “Vui ḷng KHÔNG sử dụng tên của tôi v́ tôi KHÔNG cần bất kỳ rắc rối nào từ nhóm này bởi [các con] của tôi,” nguồn tin nhắn.

Sự nghiệp chính trị của Omar sớm đặt cô vào một bên của đường đứt găy thế hệ người Mỹ gốc Somalia. Cha mẹ là những người tị nạn chiến tranh nói tiếng Somali, thường là những người bảo thủ về tôn giáo và xă hội coi nước Mỹ là nơi trú ẩn cứu cánh khỏi cơn ác mộng sống, đă nuôi dạy những đứa trẻ nói tiếng Anh, có tư tưởng tự do, những người không hài ḷng và thường hoài nghi về xă hội của chúng như bất kỳ ai khác ở độ tuổi của chúng. ở Mỹ thế kỷ 21. Omar thuộc về tâm lư mới hơn này, được nhiều người coi là “tiến bộ”. Những người cấp tiến nhấn mạnh bản sắc Somali và Hồi giáo theo cách có thể mang những cạm bẫy của một chủ nghĩa truyền thống được hồi sinh: H́nh ảnh duy nhất về mẹ của Omar trong Time for Ilhancho thấy cô ấy không có khăn trùm đầu; con gái của cô, người lớn lên trong một xă hội đa số theo đạo Cơ đốc và đa số là người da trắng, đă quyết định bắt đầu đeo khăn trùm đầu như một dấu ấn và sự khẳng định danh tính ở những nơi mà cô không phải lúc nào cũng cảm thấy được chào đón, như Omar giải thích trong hồi kư của ḿnh. Kinh nghiệm của Omar với tư cách là một người tị nạn chiến tranh dường như cũng khiến cô ấy chỉ trích xă hội Mỹ đă che chở cho cô ấy, mức độ biết ơn tương đối đối với nước Mỹ là một điểm khác biệt giữa người Mỹ gốc Somalia trung niên và con cái của họ.

Trong hồi kư của ḿnh, Omar minh họa khoảng cách thế hệ này bằng cách mô tả sự bất đồng triết học kéo dài với cha cô. “Việc tôi có thể đội khăn trùm đầu trên sàn Nhà hay không chỉ là sự lặp lại mới nhất của một cuộc tranh luận dài giữa chúng tôi về hệ thống của Mỹ,” cô nói, đề cập đến quy tắc 175 năm tuổi của cơ quan chống lại việc trùm đầu, đă bị băi bỏ sau cuộc bầu cử của Omar, phần lớn nhờ vào nỗ lực của chính cô ấy. Theo lời kể của Omar, cha cô đă ngây thơ về khả năng tự điều chỉnh dần dần của một quốc gia rơ ràng là nhẫn tâm như vậy. “Aabe tin rằng mọi thứ cuối cùng sẽ thành công cho tất cả những ai mong muốn. Tôi đă nghĩ điều đó thật ngây thơ ngay từ khi tôi đến đất nước này và nh́n thấy những người vô gia cư trên đường từ sân bay đến Manhattan.”

Vào năm 2014, Mohamud Noor, một người cấp tiến, đă quyết định tranh cử với Hạ nghị sĩ bang Phyllis Kahn, khi đó là người đương nhiệm 21 nhiệm kỳ. Nếu Noor đánh bại Kahn, anh ta sẽ trở thành nhà lập pháp bang người Mỹ gốc Somalia đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Nhưng cuộc đua sẽ gây chia rẽ trong cộng đồng Somali, nơi chủ nghĩa tiến bộ của Noor không phải là một sự bán tự động. Quan trọng hơn, Kahn có sự hậu thuẫn vững chắc của Nghị viên Thành phố Abdi Warsame, ngôi sao chính trị lớn nhất của cộng đồng và là một người tương đối ôn ḥa được các cử tri lớn tuổi và chủ doanh nghiệp ủng hộ rộng răi. Một cuộc ẩu đả được cho là đă nổ ra tại một cuộc họp kín ngày 4 tháng 2 năm 2014 ở Cedar-Riverside mà Omar tham dự—cảnh sát đă được gọi đến hiện trường, mặc dù một tài khoản chi tiếttừ MinnPost nói rằng không có vụ bắt giữ nào được thực hiện. Omar tuyên bố cô ấy đă bị tấn công và bị chấn động, những cáo buộc mà cô ấy lặp lại trong cuốn sách của ḿnh. Cô ấy cũng cáo buộc Warsame đe dọa cô ấy bằng bạo lực thể xác trong cuộc điện thoại trước cuộc họp kín với Johnson, một tuyên bố dẫn đến một cuộc điều tra nội bộ không có kết quả tại Ṭa thị chính. (Cảnh sát St. Paul sau đó đă được gọi đến để điều tra vụ việc họp kín v́ lo ngại vụ việc mang tính chính trị quá lớn khiến cơ quan thực thi pháp luật Minneapolis không thể xử lư. Không có cáo buộc nào được đưa ra.) Omar giải thích vai tṛ của cô tại cuộc họp kín là "trung lập"; mặc dù vậy, cô ấy vẫn tiếp tục trở thành cố vấn cho Noor sau này trong cuộc đua. (Warsame, trong khi đó, hiện không tham gia chính trị bầu cử — ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu Cơ quan quản lư nhà ở công cộng Minneapolis vào năm 2020.)

Vụ nổ công khai đáng chú ư khác liên quan đến Omar trong cuộc đua năm 2014 mà Noor đă thua, liên quan đến lời kêu gọi trần trụi đối với bản sắc dân tộc Somali. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2014, tại một địa điểm bỏ phiếu vắng mặt ở Ṭa thị chính Minneapolis, nhiều người nói tiếng Somali đă nghe lỏm được một thẩm phán bầu cử hỏi cử tri ở Somali rằng liệu họ có đến đó để bỏ phiếu cho “người anh em Somali,” tức là Noor, hay “người cũ”. Quư cô Do Thái,” Phyllis Kahn.

Theo các bản khai có tuyên thệ đệ tŕnh lên Ṭa án tối cao bang Minnesota, Omar, lúc đó là một trong những cố vấn hàng đầu của Noor, đă có mặt tại hiện trường để trao đổi với thẩm phán bầu cử đang được đề cập. “Tôi cũng quan sát thấy bà Yusuf giao tiếp với Ilhan Omar,” Mohamed Jama, một người ủng hộ Kahn, người đang làm thông dịch viên cho các cử tri Somali lớn tuổi, cho biết trước ṭa. “Ilhan Omar là người ủng hộ Mohamud Noor. Omar cũng đang đưa mọi người đến bỏ phiếu tại Ṭa thị chính giống như tôi. Tôi thấy Omar hét lên hướng dẫn cho cô Yusuf trong khi Yusuf đang hỗ trợ mọi người bỏ phiếu.” Michael Molzahn, một người ủng hộ Kahn khác, cho biết trong bản khai có tuyên thệ của ḿnh rằng Omar đă nhiều lần cố gắng ngăn cản Jama làm thông dịch viên cho một cử tri cụ thể, người cuối cùng đă thất vọng rời khỏi khu vực bỏ phiếu. “Omar không chỉ đứng và lảng vảng; cô ấy được phép xen vào cuộc tṛ chuyện hai lần với người đàn ông lớn tuổi khi đứng ở khu vực bỏ phiếu mà không cần hỗ trợ cử tri,” bản khai có tuyên thệ của Molzahn viết. “Omar đă tương tác với cử tri mặc dù cử tri không yêu cầu rơ ràng để cô ấy hỗ trợ anh ta.”

Chiến dịch tranh cử của Kahn đă kiến ​​​​nghị yêu cầu cách chức thẩm phán bầu cử, mặc dù cô ấy đă được bổ nhiệm lại trước khi vụ việc được đưa ra ṭa án. Ṭa án đă bác bỏ lập luận của thành phố Minneapolis rằng họ không có thẩm quyền quyết định nhân sự bầu cử địa phương, một phán quyết về cơ bản giải quyết vấn đề có lợi cho Kahn.

Không có ǵ trong số này—vụ tấn công bị cáo buộc, việc Omar tham gia vào chiến dịch thua cuộc của Noor, đối thủ sắp trở thành đối thủ của cô, các bi kịch tại Ṭa thị chính và Ṭa án Tối cao của bang—được đưa vào Time for Ilhan , hoặc vào hồ sơ của Omar đăng trên Minneapolis' City Pages , The Washington Post , hay thậm chí là The New York Times . Vụ kiện của Ṭa án Tối cao bang hoàn toàn không được nhắc đến trong hồi kư của cô ấy. Việc đưa tin về thời kỳ đầu sự nghiệp của Omar có xu hướng làm lu mờ một thực tế quan trọng: Cô ấy là một người sống sót sau cú huưch chính trị trước khi tự ḿnh ra tranh cử.

Video bắt đầu chiến dịch tranh cử vào Hạ viện của bang vào tháng 11 năm 2015 của Omar chống lại Phyllis Kahn cho thấy một căn pḥng trống một nửa ở Cedar-Riverside và khán giả gần như hoàn toàn là người Somali. Những món quà chính trị của Omar đă được thể hiện trong bài phát biểu ra mắt của cô ấy, trong số đó có tài năng của cô ấy trong việc nói những ranh giới phân chia thành tồn tại. “Bà ấy là một người theo chủ nghĩa tự do tuyệt vời,” Omar nói về Kahn đương nhiệm, một lời khen hết sức thô lỗ. “Có ai trong số các bạn biết định nghĩa của một người tự do là ǵ không? Trở thành một người tự do đối với tôi là cởi mở với những ư tưởng mới. Nhưng bạn có biết định nghĩa của tiến bộ là ǵ không? Nó đang hành động dựa trên những ư tưởng mới đó. Đó không phải là điều tất cả chúng ta muốn sao? Đó không phải là những ǵ tất cả chúng ta cần? Tôi muốn tiến bộ. Tôi tiến bộ.”

Các bài phát biểu sau đó ám chỉ đến hai lực lượng đă tạo nên sự nghiệp chính trị ban đầu của Omar, đó là cộng đồng Somalia và tổ chức tiến bộ. Habon Abdulle nói bằng tiếng Somali trong khoảng 10 phút. Abdulle sẽ không chỉ trở thành một người cố vấn: Trên biểu mẫu 990 năm 2018 cho tổ chức Phụ nữ Tổ chức Phụ nữ của Abdulle, Omar được liệt kê là nhận 9.300 đô la với tư cách là giám đốc chính sách của nhóm; Abdulle là khách của Omarcho Thông điệp Liên bang năm 2019. Sau đó, Joelle Stangler, sinh viên năm cuối Đại học Minnesota và là chủ tịch hội sinh viên, phát biểu bằng tiếng Anh. Stangler cho biết bản thân cô đă cân nhắc việc chống lại Kahn, cho đến khi một cuộc tương tác ngắn ngủi nhưng rực rỡ với Omar khiến cô thay đổi quyết định. Trong bài phát biểu, Stangler kể lại rằng ngay sau cuộc gặp gỡ định mệnh đó, cô ấy đă nói với người bạn cùng pḥng của ḿnh rằng: “Tôi không những không muốn bỏ chạy mà c̣n muốn toàn lực ủng hộ Ilhan 100%.

Mặc dù Stangler chưa bao giờ chính thức phụ trách chiến dịch năm 2016 của Omar, nhưng nhiều nguồn tin, bao gồm cả Phyllis Kahn, đă xác định cô ấy là phụ tá quan trọng nhất của Omar trong suốt cuộc đua. Theo một nguồn tin của Đảng Dân chủ nhớ lại, Stangler là người “có khả năng phân tích thực sự sâu sắc về lĩnh vực này”. Cô ấy đă trở thành giám đốc lĩnh vực Minnesota cho chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 của Bernie Sanders, đồng thời cũng từng là giám đốc chính trị cho Take Action, một nhóm hoạt động tổ chức thay mặt cho các ứng cử viên tiến bộ ở Twin Cities. Trong cuộc đua đầu tiên của Omar, chàng trai 22 tuổi khi đó đă giúp huy động sự ủng hộ trong khuôn viên Đại học Minnesota, t́m ra những lá phiếu quyết định cho cuộc bầu cử sơ bộ được tổ chức vào tháng 8, khi lớp học đă nghỉ học.

Cuộc đua năm 2016 giữa Omar với Noor và Kahn là cuộc đụng độ giữa quá khứ của Đảng Dân chủ và một trong những tương lai có thể có của nó. Kahn, người đương nhiệm, là một tiến sĩ vật lư sinh học Yale 79 tuổi rất tự do. người từng là nhà hoạt động v́ quyền của phụ nữ vào những năm 70, đă đi đầu trong việc ban hành lệnh cấm hút thuốc trong nhà đầu tiên của đất nước, đồng thời ủng hộ các nguyên nhân như hạ thấp tuổi bầu cử và hợp pháp hóa sản xuất cây gai dầu công nghiệp. Cô ấy là một người Do Thái sinh ra ở Brooklyn hiếu chiến với thành tích đạt được trong nhiều thập kỷ; người thách thức, một người Hồi giáo trẻ gốc Phi trong lần đầu tiên tranh cử vào chức vụ dân cử. “Bạn muốn một nhà lập pháp có uy tín hay bạn muốn một biểu tượng? Câu trả lời là, chúng tôi muốn có một biểu tượng,” ứng cử viên bị đánh bại, Phyllis Kahn, tóm tắt trận đấu của họ trong một cuộc phỏng vấn với Tablet vào mùa đông năm 2019. Kahn nhớ đó là một cuộc thi khá tôn trọng.

'Có điều ǵ đó tự phóng đại về sự nhấn mạnh của Ilhan Omar đối với sự phản bội của người Mỹ gốc Somali.'  Omar vào ngày bầu cử tiểu bang năm 2016 tại Minneapolis.

'Có điều ǵ đó tự phóng đại về sự nhấn mạnh của Ilhan Omar đối với sự phản bội của người Mỹ gốc Somali.' Omar vào ngày bầu cử tiểu bang năm 2016 tại Minneapolis. STEPHEN MATUREN/AFP QUA GETTY IMAGES

Thời gian dành cho Ilhan làm suy yếu đánh giá như vậy. Trong một cảnh, Omar báo cáo những cuộc tấn công mới nhất của Kahn nhằm vào cô với sự hoài nghi gần như choáng váng. “Phyllis nói rằng khăn quàng cổ của tôi trở nên mềm hơn, quần jean của tôi chật hơn và da tôi sáng hơn,” Omar thông báo. Những bức ảnh cắt ngắn cho nhân viên trẻ của cô ấy cho thấy vẻ kinh hoàng và bối rối. Bằng chứng duy nhất Kahn từng nói đây là chính bộ phim. Khi được đưa ra b́nh luận vào tháng 1 năm 2020, cựu nhà lập pháp đă phủ nhận việc chưa từng đưa ra tuyên bố này và nói rằng cô ấy không biết rằng cáo buộc đó xuất hiện trong phim cho đến khi tôi thông báo cho cô ấy. Kahn nói: “Tôi chắc chắn không nói điều đó. “Đó không phải là điều tôi sẽ nói.” Lời vu khống được cho là cố chấp này từ một quan chức dân cử quyền lực và đối thủ bầu cử không xuất hiện trong cuốn tự truyện của Omar.

Trong khi Kahn và Omar thỉnh thoảng xung đột, chẳng hạn như trong một cuộc tranh luận ngắn trên Đài phát thanh công cộng Minnesota, trong cuốn hồi kư của ḿnh, Omar dành sự gay gắt nhất của ḿnh cho Noor, người đột ngột chuyển từ một người mang tiêu chuẩn tiến bộ sang đại diện cho một “cơ sở Somalia” mờ ám. Trong cuốn sách, kẻ thù ghê gớm nhất của Omar không phải là vận động hành lang ủng hộ Israel, Nancy Pelosi, hay thậm chí là Donald Trump. Thay vào đó, nó là một mối quan hệ của những người môi giới quyền lực Somali địa phương, những ông già được mô tả như thể họ là một hội nghị bàn tṛn của những tên trùm Mafia. Cô ấy viết rằng một nhóm “những người lớn tuổi của cộng đồng Somali”, những người đều ủng hộ Noor, đă cố gắng đe dọa cha cô ấy để khiến cô ấy bỏ cuộc đua năm 2016. Những người đàn ông giải thích rằng “họ định dùng mọi nguồn lực để chống lại tôi nếu tôi khăng khăng tiếp tục bỏ chạy. Cha cũng đừng tính chuyện trở về kêu oan sau này con bị xa lánh. "Đây là lời cảnh báo của bạn," trưởng lăo nói. 'Sẽ không có cái nào khác.' ... Những người lớn tuổi đă giữ lời và một chiến dịch bôi nhọ khủng khiếp đă lan rộng khắp cộng đồng Somalia.”

Theo lời kể của Omar, những người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis dễ dàng bị thao túng bởi nhóm lănh chúa tóc bạc này. Cô viết: “Ư tưởng rằng tôi là một người Qatar trong chính phủ ít rùng rợn hơn nhiều so với các video của người Somali mà tôi đang nói nhưng thay v́ giọng nói của tôi, những âm sắc đàn ông quỷ quyệt phát ra từ miệng tôi. Cô ấy báo cáo rằng người Somalia đă lan truyền tin đồn về một mối quan hệ đồng tính nữ bí mật và tuyên bố rằng những đứa con của Omar không phải là con của cô ấy. Omar tin rằng cuộc tranh căi về nhiều cuộc hôn nhân bị cáo buộc của cô ấy bắt đầu như một phần của âm mưu xă hội đen này, và do đó bắt nguồn từ chính cộng đồng của cô ấy. “Đây là điều mà cơ sở Somalia - người từng chống lại cuộc bầu cử của tôi - đă tính đến: rằng mức độ ám ảnh và hoảng loạn trong cộng đồng sẽ là quá lớn đối với gia đ́nh tôi.”

Có điều ǵ đó tự phóng đại về việc cô ấy nhấn mạnh vào sự phản bội của người Mỹ gốc Somalia, như thể chính các cuộc bầu cử lặp đi lặp lại và tấm gương đạo đức sáng ngời của cô ấy đă minh chứng cho chủ nghĩa tiến bộ của cộng đồng cô ấy và giải cứu nó khỏi những phần tử phản động nhất. Tuy nhiên, những nỗ lực của Omar để tách ḿnh ra khỏi ḍng chính được cho là ác ư trong cộng đồng của cô ấy không hoàn toàn đáng tin cậy, v́ chồng và anh rể của cô ấy là những người tham gia khá cao vào cuộc sống của người Somali ở Thành phố đôi và hơn thế nữa.

Các cuộc bầu cử sơ bộ của DFL là một cuộc vượt chướng ngại vật ba ṿng bao gồm các cuộc họp kín chọn đại biểu cho một hội nghị chứng thực trong đó một ứng cử viên phải đạt ngưỡng 60% để nhận được dấu chấp thuận của DFL trước cuộc bỏ phiếu sơ bộ thực sự. Omar có ấn tượng rằng Noor đă hứa với những người ủng hộ anh ấy với cô ấy trong trường hợp có một hội nghị chứng thực bị treo, trong đó Omar dẫn đầu nhưng không đạt được 60% ủng hộ. Trong Time for Ilhan , Omar mắng anh ta bằng tiếng Somali trước cuộc bỏ phiếu cuối cùng: “Nếu bạn muốn đoàn kết cộng đồng Somali, hôm nay là ngày,” phụ đề viết. Công ước kết thúc mà không có sự chứng thực nào. Đó là thất bại bầu cử cuối cùng mà Omar từng đối mặt.

Vào ngày 10 tháng 8 năm 2016, Omar đă giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ với 41% phiếu bầu. Cô ấy có thể đă không nhận được đa số sự ủng hộ của người Somalia, vốn được chia cho ba ứng cử viên. Trong các cuộc đua có nhiều đối thủ người Somali, sự ủng hộ đôi khi có thể bị phá vỡ theo ḍng tộc: Người Darod, người bị ngược đăi một cách có hệ thống trong những năm đầu của cuộc nội chiến, chiếm một phần lớn trong cộng đồng Thành phố đôi và lẽ ra có thể bỏ phiếu cho cô ấy, trong khi cuộc hôn nhân của Omar với Hirsi, một người Hawiya, đă giúp huy động được sự ủng hộ từ một bộ phận quan trọng khác của dân số Somalia trong khu vực. Tại lễ kỷ niệm chiến thắng của Omar, bị bắt trong Time for Ilhan, một người ủng hộ đă giương cao lá cờ của Ogaden, khu vực có đa số người Somali ở Ethiopia, nơi sinh sống của một nhánh của tộc Darod. Nhưng chính những người cấp tiến da trắng trẻ tuổi, thay v́ bỏ phiếu theo khối giữa những người Somalia, đă đẩy cô đến chiến thắng.

Theo hồi kư của cô, cộng đồng Somali, được nhân cách hóa trong Noor, đồng minh cũ của cô, luôn chống lại cô ở mọi ngă rẽ. Một số vụ dàn xếp tỷ số vui vẻ nhất của cuốn sách liên quan đến Noor và những người ủng hộ anh ta. Noor đă được bầu vào ghế cơ quan lập pháp bang cũ của Omar vào năm 2018, nhưng theo cách nói của Omar, chiến thắng này chỉ khiến nỗi nhục nhă mà cô đă gặp phải với anh ta hai năm trước đó trở nên vĩnh viễn. “Khoảnh khắc đó, như tôi đă nghi ngờ vào thời điểm đó, sẽ là lúc anh ấy hoàn tác,” cô ấy viết về cuộc đối đầu của ḿnh với Noor tại đại hội đảng năm 2016, khi anh ấy từ chối rời cuộc đua mặc dù không giành được sự tán thành của đảng. “Không ǵ có thể xóa được h́nh ảnh đó, kể cả hai năm sau, khi Noor chạy đua vào chiếc ghế của tôi khi tôi tranh cử vào Quốc hội. Các cuộc tấn công dựa trên giới tính mà anh ấy đă triển khai chống lại tôi đă được chuyển sang anh ấy khi người Somalia công khai chế nhạo anh ấy về ngày hôm đó. 'Bạn đă rất sợ rằng một cô gái sẽ đánh bạn.' 'Tôi rất vui v́ cuối cùng cô ấy đă nhường cho bạn chiếc ghế mà bạn đă khóc trong nhiều năm.'”

'Ngay cả khi là đại diện của bang Minnesota, Omar đă có mối quan hệ chặt chẽ ở cấp cao nhất trong hệ thống chính trị của Somalia.'  Một cuộc gặp năm 2017 với Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan tại New York trước phiên họp thứ 72 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.

'Ngay cả khi là đại diện của bang Minnesota, Omar đă có mối quan hệ chặt chẽ ở cấp cao nhất trong hệ thống chính trị của Somalia.' Một cuộc gặp năm 2017 với Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan tại New York trước phiên họp thứ 72 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. TỔNG THỐNG THỔ NHĨ KỲ/YASIN BULBUL/CƠ QUAN ANADOLU/H̀NH ẢNH GETTY

Omar sẽ không phải là nhà lập pháp tiểu bang b́nh thường, cũng như cô ấy không phải là nhân viên Ṭa thị chính b́nh thường. Vào tháng 8 năm 2017, cô ấy đă xuất hiện trên trang b́a của tạp chí Time , tạp chí này tuyên bố cô ấy là một phần của nhóm “những phụ nữ đang thay đổi thế giới”. Cô ấy đă xuất hiện trên Daily Show lần đầu tiên vào tháng 7 năm đó.

Với cách đối xử gay gắt đối với cộng đồng người Mỹ gốc Somali ở Twin Cities trong cuốn hồi kư của ḿnh, có lẽ không có ǵ ngạc nhiên khi Omar đă sớm đầu tư số vốn chính trị ít ỏi mà cô có để cố gắng ngăn quỹ nhà nước chảy vào liên minh các tổ chức Somali địa phương. Vào năm 2017, Omar đă đưa ra một dự luật phản đối một cách hiệu quả gói tài trợ văn hóa và nghệ thuật Somali đă được thông qua Hạ viện và Thượng viện do Đảng Cộng ḥa kiểm soát — biện pháp thay thế của cô ấy sẽ chỉ tài trợ cho Bảo tàng người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis. Omar từ chối hướng tới một thỏa hiệp; thay vào đó, cô ấy đă yêu cầu một thành viên đồng minh của Thượng viện bang chuyển một nửa tổng số tiền tài trợ của dự luật cho bảo tàng. Cô ấy vẫn không khoan nhượng cho đến cùng, phản đối tất cả các khoản tài trợ phi bảo tàng ngay cả khi dự luật được cả hai viện thông qua và được đưa ra ủy ban hội nghị, một trong những bước cuối cùng của quy tŕnh lập pháp. Shep Harris nhớ lại vào mùa hè năm 2020, một nhà vận động hành lang đă làm việc thay mặt cho liên minh các tổ chức cộng đồng Somali để vận động cho cộng đồng lớn hơn: “Chúng tôi đă nói với chủ tịch ủy ban: Đây là điều mà cộng đồng Somali muốn, chứ không phải điều mà đại diện Omar muốn. dự luật tài trợ, và hiện là thị trưởng Dân chủ của Thung lũng Vàng, ngoại ô Minneapolis.

Đối với một người quan sát bên ngoài, việc giữ lại những khoản tiền cần thiết được dành cho cộng đồng của chính ḿnh có vẻ là điều nhỏ nhặt, phi lư hoặc thậm chí là tự hủy hoại bản thân. Nhưng Ilhan Omar biết rơ hơn những người hoài nghi của ḿnh: Vào thời điểm phôi thai trong sự nghiệp lập pháp của ḿnh, lợi ích chính trị của một hành động chủ nghĩa cản trở nhỏ nhặt và không thể giải thích được lớn hơn chi phí của nó. Nó cho thấy sự thoải mái khi đứng một ḿnh, một điều cốt lơi không thể đoán trước — và, với lịch sử đầy biến động của chồng cô là Ahmed Hirsi với Kajoog, dự kiến ​​​​sẽ nhận được tài trợ từ dự luật ban đầu, khả năng sẵn sàng hành động v́ những mối hận thù cá nhân và chính trị.

Nhưng Omar biết rơ hơn những người hoài nghi của ḿnh: Vào thời điểm phôi thai trong sự nghiệp lập pháp của ḿnh, lợi ích chính trị của một hành động chủ nghĩa cản trở nhỏ nhặt và không thể giải thích được vượt xa chi phí của nó.

https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country

Trong nhiệm kỳ duy nhất của cô ấy ở St. Paul, Omar sẽ trở nên đáng chú ư v́ những điều cô ấy đă làm ở xa Minnesota. Vào cuối năm 2016, ngay trước khi nhậm chức, cô đă đến Somalia cùng với Ahmed Hirsi và gặp tổng thống Hassan Sheikh. Tháng 2 năm đó, Omar và Hirsi là diễn giả chính tại một cuộc biểu t́nh kỷ niệm quốc hội Somalia và thượng viện lựa chọn một cựu quan chức của Bang New York tên là Mohamed Abdullahi Mohamed, biệt danh Farmaajo, làm tổng thống của đất nước. Ngay sau đó, vào đầu tháng 3 năm 2017, anh rể của Omar là Mohammed Keynan được bổ nhiệm làm thư kư thường trực cho Hassan Ali Khayre, một cựu quan chức của Hội đồng Người tị nạn Na Uy, người được Farmaajo bổ nhiệm làm thủ tướng của ông.

Ngay cả khi là đại diện của bang Minnesota, Omar đă có mối quan hệ chặt chẽ ở các cấp cao nhất trong hệ thống chính trị của Somalia. Nhưng cô ấy khoe khoang những liên hệ thậm chí c̣n ấn tượng hơn. Omar đă có một cuộc gặp kín với nhà lănh đạo Thổ Nhĩ Kỳ chuyên quyền Recep Tayyip Erdogan ở New York vào mùa thu năm 2017, rất lâu trước khi cô tham gia Quốc hội.

Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ khi đó và vẫn là một trong những bên tham gia kinh tế và chính trị lớn ở Somalia. Cuộc ngồi xuống có thể là kết quả của việc Omar và Ahmed Hirsi làm việc với Hashi Shafi, người đă giúp tổ chức một phái đoàn người Mỹ gốc Somalia hàng năm để hỗ trợ chuyến đi hàng năm của Erdogan tới dự khai mạc Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Mặc dù Shafi không thực hiện nhiệm vụ cụ thể đó, nhưng khi tôi gặp anh ấy ở Minneapolis vào cuối năm 2019, anh ấy giải thích rằng người của Erdogan sẽ liên hệ với anh ấy để tập hợp một nhóm nhỏ người Mỹ gốc Somalia cùng nhau đến dự Đại hội đồng khai mạc hàng năm. Shafi cho biết vào cuối năm 2019: “Người Somalia, dù chúng tôi ở đâu, chúng tôi có mối quan hệ rất tôn trọng với cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ. “Họ đă làm điều mà chưa quốc gia nào từng làm cho chúng tôi trước đây. Họ đă mang lại niềm hy vọng của Somalia đă bị lăng quên trong một thời gian dài.”

Shafi là một trong những người lănh đạo của Hiệp hội Hữu nghị người Mỹ gốc Somali Thổ Nhĩ Kỳ, có trang Facebook mô tả một nhóm sinh viên Somali đến thăm Umat Acar, khi đó là tổng lănh sự Thổ Nhĩ Kỳ tại Chicago, trước khi lên đường đến Istanbul. Acar cũng đă phát biểu tại lễ hội Somali 2017 ở Minneapolis, một sự kiện khác được ghi lại trên trang Facebook của TSAFA.

Acar đă từng là chánh văn pḥng của Ahmet Davutoglu, bộ trưởng ngoại giao quyền lực một thời của Thổ Nhĩ Kỳ và là kiến ​​trúc sư của chính sách đối ngoại “Không có vấn đề” thất bại của đất nước. Khi Davutoglu không được ủng hộ, Acar đă khôn ngoan định vị ḿnh là một con chó tấn công chống lại các cộng đồng người Hy Lạp và Armenia ở Trung Tây. Anh ta cũng nhắm mục tiêu vào khu vực có nhiều tín đồ của giáo sĩ Thổ Nhĩ Kỳ Fethullah Gulen, đối thủ không đội trời chung của Erdogan. Tổng lănh sự kêu gọi các thành viên Quốc hội địa phương không công nhận cuộc tàn sát người Armenia của Đế chế Ottoman năm 1915 là một tội ác diệt chủng, cố gắng trục xuất một chủ nhà hàng địa phương về Thổ Nhĩ Kỳ v́ tiền kiếp bị cáo buộc là một kẻ khủng bố người Kurd, đă tweet một cách thô bạo về lịch sử bạo lực giữa người Hy Lạp và người Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời phát hành một video đă được chỉnh sửa có chủ ư gây hiểu lầm, trong đó Steven Cook, một thành viên tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, xuất hiện để chế giễu những người Thổ Nhĩ Kỳ bị giết trong cuộc đảo chính năm 2016 của đất nước. “Ông ấy đă vượt qua một số ranh giới mà bạn chưa bao giờ thấy vượt qua, đặc biệt là bởi các nhà ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ – họ trong lịch sử là những nhà ngoại giao giỏi. Bây giờ họ đều là những người trung thành với Erdogan,” Endy Zemenides, giám đốc điều hành của Hội đồng Lănh đạo người Mỹ gốc Hy Lạp, nhớ lại. Zemenides cho biết Acar rời thị trấn vào đầu năm 2019, không lâu sau khi Zemenides và các nhà hoạt động khác ở Chicago mở “các cuộc thảo luận với chính quyền Illinois, Bộ Ngoại giao và Quốc hội về việc coi anh ta là người không được hoan nghênh v́ đă kích động bạo lực chống lại công dân Mỹ”. giám đốc điều hành của Hội đồng lănh đạo người Mỹ gốc Hy Lạp. Zemenides cho biết Acar rời thị trấn vào đầu năm 2019, không lâu sau khi Zemenides và các nhà hoạt động khác ở Chicago mở “các cuộc thảo luận với chính quyền Illinois, Bộ Ngoại giao và Quốc hội về việc coi anh ta là người không được hoan nghênh v́ đă kích động bạo lực chống lại công dân Mỹ”. giám đốc điều hành của Hội đồng lănh đạo người Mỹ gốc Hy Lạp. Zemenides cho biết Acar rời thị trấn vào đầu năm 2019, không lâu sau khi Zemenides và các nhà hoạt động khác ở Chicago mở “các cuộc thảo luận với chính quyền Illinois, Bộ Ngoại giao và Quốc hội về việc coi anh ta là người không được hoan nghênh v́ đă kích động bạo lực chống lại công dân Mỹ”.

Một phần công việc của Acar là thúc đẩy sự ủng hộ giữa các nhóm Hồi giáo mới hơn, nhỏ hơn hoặc thường bị bỏ qua ở Trung Tây. Điều đó bao gồm cộng đồng người Mỹ gốc Somali ở Minneapolis, nơi mà ông Erdogan coi là cơ sở hỗ trợ tiềm năng của Mỹ. Omar và Ahmed Hirsi đă gặp Acar tại văn pḥng của anh ấy ở Chicago vào tháng 6 năm 2017. Cuộc gặp giữa Erdogan và Omar vào mùa thu năm đó có ư nghĩa hoàn hảo đối với Erdogan, ông chủ chuyên quyền của Acar. Omar là người Mỹ gốc Somali nổi tiếng nhất trong nước, đồng thời là người thân thiết với những nhân vật thân Thổ Nhĩ Kỳ trong cộng đồng của cô ấy.

Thổ Nhĩ Kỳ không phải là người chơi nước ngoài duy nhất ở Somalia. Ethiopia và Kenya đều có quân đoàn bộ binh trong nước, chính quyền trung ương của họ không kiểm soát nhiều bất cứ thứ ǵ bên ngoài Mogadishu. Qatar, một đồng minh thân cận của Thổ Nhĩ Kỳ, đă cấp tiền mặt giải ngân cho các nhân vật chính trị của Somalia thông qua Fahad Yasin - giám đốc t́nh báo trẻ tuổi đă trở thành cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Somalia và là một cựu nhân viên của Al Jazeera - ít nhất là cho đến khi nền chính trị của ông suy thoái gần đây. vận may. Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đang xây dựng một cảng và có thể là cơ sở quân sự ở Berbera, thuộc khu vực ly khai Somaliland.

Omar với tổng thống Azad Kashmir do Pakistan quản lư, Sultan Mehmood Chaudhry, tại Muzaffarabad vào ngày 21 tháng 4 năm 2022

Omar với tổng thống Azad Kashmir do Pakistan quản lư, Sultan Mehmood Chaudhry, tại Muzaffarabad vào ngày 21 tháng 4 năm 2022 SAJJAD QAYYUM/AFP QUA GETTY IMAGES

Sau đó, trong sự nghiệp quốc hội của ḿnh, Omar sẽ tiếp tục hoạt động với tư cách là một nhà ngoại giao tự bổ nhiệm, người dường như đang chủ động can thiệp vào các tranh chấp nước ngoài gây tranh căi—vào tháng 4 năm 2022, Omar đă khiến các nhà ngoại giao từ Ấn Độ, một đồng minh của Hoa Kỳ, tức giận khi cô đến thăm một phần của Kashmir do Pakistan kiểm soát mà Ấn Độ coi là đang bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. chuyến thămdiễn ra chỉ vài ngày sau cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đă lật đổ Thủ tướng Pakistan Imran Khan, khiến có vẻ như Omar đang truyền đạt sự chấp thuận của bà, và có thể cả của Mỹ, đối với ban lănh đạo mới của đất nước. Sự tham gia của Omar vào chính trị Somalia trong nhiệm kỳ của cô ấy trong cơ quan lập pháp bang là thông lệ quan trọng đối với công việc tự do quốc tế sau này của cô ấy. Omar có vẻ như đang cho mượn lực hấp dẫn ngày càng tăng của ḿnh để ủng hộ một bên trong bất kỳ cuộc tranh luận chính trị đầy biến động nào của Somali. Sheikh, Farmaajo, Acar và thậm chí cả Erdogan đều có thể muốn sử dụng Omar, người đă tạo nên lịch sử và Thời đại.chủ đề trang b́a, để chứng minh rằng họ có sự ủng hộ ở Minneapolis, thủ đô của cộng đồng người Somali hải ngoại. “Đó là cách hoạt động của chính trị Somalia,” giáo sư Mohamed Ingiriis của King's College London nói. “Không ai có thể đến với bạn một cách từ thiện. Đó là một thị trường - một thị trường bạo lực.”

Ngay trong năm đầu tiên nhậm chức, đă có những dấu hiệu cho thấy sự khó tính của Omar không theo kịp danh tiếng của cô. Vào năm 2018, Steve Drazkowski, một thành viên Đảng Cộng ḥa của Hạ viện bang, đă cáo buộc Omar về một số hành vi không phù hợp về tài chính trong chiến dịch tranh cử, bao gồm việc sử dụng quỹ tranh cử để chi trả cho việc đi lại ngoài bang, cũng như để trang trải các chi phí liên quan đến cuộc ly hôn của cô ấy với Elmi. Ban Tài chính Chiến dịch Minnesota nhận thấy các tuyên bố đủ đáng tin cậy để đảm bảo một cuộc điều tra.

Blogger bảo thủ và luật sư Minneapolis Scott Johnson đă xem xét chi tiết vụ việc, cũng như phóng viên David Steinberg. V́ những lư do có thể từ sự bất cẩn vô tội đến việc cố t́nh che giấu t́nh trạng hôn nhân thực sự của ḿnh, Omar đă khai thuế chung với Hirsi vào năm 2014 và 2015, theo lời khai mà hội đồng thu thập được trong quá tŕnh điều tra. Các cặp vợ chồng có thể khai thuế chung, bao gồm nhiều khoản trợ cấp và khấu trừ khác nhau, chỉ khi tiểu bang họ sống công nhận họ là vợ chồng hợp pháp. Vào thời điểm đó, Omar đă kết hôn hợp pháp với Elmi chứ không phải Hirsi. Cuộc điều tra kết thúc với việc hội đồng yêu cầu Omar trả 3.500 đô la cho ủy ban chiến dịch của cô ấy cùng với h́nh phạt dân sự 500 đô la, một t́nh tiết không được đề cập trong cuốn sách của Omar.

Hồi kư của Omar, trong đó tuyên bố rằng câu chuyện về cuộc hôn nhân của cô với Elmi lần đầu tiên xuất hiện trên một trang web của cộng đồng Somali, phần lớn coi vụ bê bối là sự tiếp nối âm mưu của cơ sở Somali giống Mafia chống lại cô. Câu chuyện vỡ lở không lâu sau chiến thắng đầu tiên của Omar vào năm 2016. Trong Time for Ilhan , nhóm làm phim tài liệu đă bị thu hồi quyền truy cập trong suốt hai tuần trong khi các nhà quản lư khủng hoảng của Omar, bao gồm một số nhà tư vấn chính trị hàng đầu của bang DFL, t́m cách tŕnh bày toàn bộ chủ đề như một cuộc tấn công vào bản sắc Somali và Hồi giáo của cô ấy. Nếu các nhà làm phim phản đối việc đột ngột đ́nh chỉ các đặc quyền của họ trong giai đoạn có lẽ là thú vị nhất trong sự nghiệp chính trị của Omar cho đến thời điểm đó, th́ họ sẽ không xuất hiện trong phim.

Ngày nay, cuộc hôn nhân với Elmi rất thú vị v́ nó ít quan trọng như thế nào đối với tương lai chính trị của Omar. Sau khi Omar vượt qua làn sóng tranh căi ban đầu, các cử tri đơn giản là không c̣n quan tâm đến vấn đề này nữa—các cuộc hôn nhân và những hành vi không phù hợp trong chiến dịch tranh cử đă nhanh chóng được công chúng đánh giá cao về Omar, người quá lôi cuốn, quá gây chia rẽ và giờ đây là một nhân vật quá quan trọng để bị đánh gục bởi bất cứ điều ǵ mơ hồ như cách đối xử khác biệt về văn hóa và hôn nhân hợp pháp giữa những người Mỹ gốc Somalia, hay tầm thường như một khoản hoàn trả nhỏ theo lệnh của nhà nước cho ủy ban chiến dịch của cô ấy.

Omar đă tránh được bất kỳ tranh căi nào nữa nhờ chiến lược gia bậc thầy của cô ấy và đội quản lư khủng hoảng được xếp chồng lên nhau bởi PR, điều này đă khiến công tố viên hàng đầu của khu vực xuất hiện để ngay lập tức minh oan cho cô ấy về bất kỳ hành vi sai trái nào. Vào ngày 22 tháng 8 năm 2016, Andrew Luger, khi đó là công tố viên liên bang của khu vực Twin Cities, đă gửi một lá thư tới chiến dịch tranh cử của Omar xác nhận rằng văn pḥng của ông không điều tra người đại diện được cho là của tiểu bang về bất kỳ tội danh nào bị cáo buộc. Vào tháng 6 năm 2019, Johnson đă gửi email cho Luger, người đă chuyển sang hành nghề tư nhân. “Tôi tự hỏi liệu bạn có thực sự xem xét bất kỳ tài liệu nào trước khi gửi bức thư ngày 22 tháng 8 năm 2016 của ḿnh hay không ... Tôi cũng tự hỏi liệu bạn đă từng gửi một bức thư khác như vậy thông báo rằng bất kỳ ai không bị Văn pḥng Công tố Hoa Kỳ Minnesota điều tra chưa,” Johnson thắc mắc. Luger trả lời: “Cảm ơn. Tôi sẽ vượt qua điều này.

Vào mùa hè năm 2018, Omar đă trở thành một người có tầm quan trọng không chỉ ở địa phương. Gia đ́nh cô có ảnh hưởng trên hai lục địa. Chị gái của cô, Sahra Noor, đă chuyển đến Nairobi, đột ngột từ bỏ sự nghiệp lănh đạo của một tổ chức phi lợi nhuận về sức khỏe ở Minneapolis và thành lập một công ty tư vấn dành cho một phụ nữ ở thủ đô Kenya, cách nơi làm việc của chồng cô ở Mogadishu 90 phút bay. Tháng 10 năm đó, Noor đă tweet một bức ảnh của cô ấy ở Garowe, thủ phủ hành chính của Puntland, đứng cạnh bộ trưởng quan hệ quốc tế của khu tự trị.

Vào tháng 6 năm 2019, David Steinberg lao dốcmă nguồn của trang web dành cho doanh nghiệp tư vấn của Noor và t́m thấy bằng chứng cho thấy một người dùng tên là Ahmed Elmi, tên chồng cũ của Omar, đă đăng nhập vào tài khoản Instagram cá nhân của anh ta trong khi thiết lập liên kết đến Instagram của công ty mới. Steinberg kết luận: “Không có lời giải thích hợp lư nào cho việc mă này tồn tại ngoài việc Elmi làm việc cho Noor. Omar đă tuyên bố trong đơn ly hôn năm 2017 rằng cô ấy đă không liên lạc với Elmi kể từ năm 2011 và không biết nơi ở của anh ta, điều này rất khó giải quyết với việc anh ta có thể làm việc cho chị gái của Omar vào mùa hè năm 2018. Nhưng một lần nữa, những vướng mắc gia đ́nh này bây giờ chỉ thú vị như một ví dụ về những loại sự việc mà Omar, thông qua sức mạnh của nhân cách và kỹ năng chính trị tuyệt đối, có thể khiến cho không liên quan.

Đối với hành động tiếp theo của ḿnh, Omar đă thúc đẩy một làn sóng đang lên làm thay đổi cả Đảng Dân chủ và bối cảnh chính trị quốc gia: Một chủ nghĩa cánh tả ngàn năm có h́nh đại diện thường là những sinh viên mới tốt nghiệp đại học thất vọng, những người mơ ước đánh bật cơ sở Đảng Dân chủ hư hỏng và vô kỷ luật. Một thế hệ các nhà hoạt động và chính trị gia trẻ hơn, trong khi vẫn chỉ đại diện cho một phần nhỏ đảng viên Đảng Dân chủ trong chức vụ dân cử, đă thực sự đưa đảng này đi xa hơn về nhập cư, phá thai, chính sách của Israel, tha thứ cho sinh viên vay tiền và một loạt các vấn đề khác. Như chiến thắng của Omar trước Kahn cho thấy, quá tŕnh này đang diễn ra tốt đẹp ở Minneapolis trước khi Thống đốc Mark Dayton quyết định không tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, dẫn đến quyết định tranh cử thống đốc của Bộ trưởng Tư pháp Lori Swanson, điều này đă dọn đường cho Nghị sĩ Keith Ellison để ứng cử vào công việc sắp trở thành cũ của Swanson.

Omar tuyên bố ứng cử vào chiếc ghế trống bất ngờ của Ellison vào đầu tháng 6 năm 2018. Cuộc bầu cử sơ bộ c̣n 9 tuần nữa mới diễn ra. Riêng tư, cô ấy đă suy nghĩ về một cuộc tranh cử vào quốc hội trong tương lai vào đầu mùa xuân năm 2017. Các đối thủ của Omar bao gồm Margaret Anderson Kelliher, cựu diễn giả của Hạ viện Minnesota và Patricia Torres Ray, người Latinh đầu tiên phục vụ tại Thượng viện bang Minnesota. . Omar vẫn giành được sự tán thành ngay lập tức của Dayton và Thị trưởng Minneapolis Jacob Frey. Trong một sự đảo ngược đặc trưng, ​​​​Omar sẽ chỉ trích gay gắt Frey sau hậu quả của các cuộc biểu t́nh năm 2020 của George Floyd.

Omar là một sự đánh cược hợp lư ngay từ đầu, bất kể phần c̣n lại của lĩnh vực này có thể có chất lượng như thế nào. Các đồng minh của cô ấy bao gồm Brandon Schorsch, người đứng đầu ủy ban điều hành của Khu vực Quốc hội số 5 của DFL, bản thân nó chứa đầy những người trẻ tuổi tiến bộ ủng hộ Omar. Schorsch từng là nhân viên cho chiến dịch tranh cử của ứng cử viên thị trưởng tiến bộ Minneapolis Raymond Dehn, người đă nhận được 43% phiếu bầu sơ bộ đáng ngạc nhiên với Joelle Stangler là người quản lư chiến dịch tranh cử của ông.

'Vụ sát hại George Floyd dưới bàn tay của Sở cảnh sát Minneapolis ở quận Omar đă gây ra các cuộc biểu t́nh toàn quốc lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.'  Omar nói chuyện với một đám đông tụ tập để tuần hành yêu cầu cắt giảm ngân sách của Sở Cảnh sát Minneapolis vào ngày 6 tháng 6 năm 2020, tại Minneapolis.

'Vụ sát hại George Floyd dưới bàn tay của Sở cảnh sát Minneapolis ở quận Omar đă gây ra các cuộc biểu t́nh toàn quốc lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.' Omar nói chuyện với một đám đông tụ tập để tuần hành yêu cầu cắt giảm ngân sách của Sở Cảnh sát Minneapolis vào ngày 6 tháng 6 năm 2020, tại Minneapolis. H̀NH ẢNH STEPHEN MATUREN / GETTY

Khu vực DFL đă lên lịch cho hội nghị chứng thực vào cuối tuần Ngày của Cha, chỉ 12 ngày sau khi ghế mở và 10 ngày sau khi hội nghị được triệu tập. Những người được ủng hộ có quyền truy cập vào các tài nguyên của DFL và thông tin cử tri trong cuộc bầu cử sơ bộ. Hội nghị cuối tuần do những người ủng hộ Omar kêu gọi được coi là quá quyết đoán đến mức thậm chí ít ứng cử viên bận tâm tranh luận về nó. “Tôi không nói chính xác đó là gian lận, nhưng nó được dàn dựng theo cách gần như đảm bảo sự ủng hộ của cô ấy,” một nhà hoạt động của đảng nói với tôi vào cuối năm 2019.

Stangler trở lại với tư cách là người quản lư chiến dịch của Omar. Tuy nhiên, ứng cử viên có thể tỏ ra không biết ǵ một cách kỳ lạ về các yêu cầu của chiến dịch vận động: Cô ấy là người duy nhất trong số các ứng cử viên chính bỏ qua diễn đàn “gặp gỡ các ứng cử viên” do tổ chức Black Women Rising tổ chức.

Diễn đàn duy nhất của cuộc đua mà mọi ứng cử viên hàng đầu đều tham dự đă diễn ra tại Giáo đường Do Thái Beth El, một hội thánh lớn của phong trào Bảo thủ ở Công viên St. Louis vào ngày 6 tháng 8 năm 2018. Là một thành viên của cơ quan lập pháp bang, Omar là một trong 28 các thành viên của Hạ viện đă bỏ phiếu chống lại luật chống BDS của tiểu bang vào năm 2017. Trong một trong những bài phát biểu đầu tiên của ḿnh với tư cách là một nhà lập pháp, Omar đă đặtra nhiều chủ đề trong sự nghiệp sau này của cô ấy và về tương lai gần của nền chính trị Hoa Kỳ, đồng thời phản đối dự luật. Cô ấy mở đầu bằng cách sử dụng vụ bê bối đạo đức đang diễn ra về phân biệt chủng tộc ở Mỹ và việc cô ấy bị đối xử tệ bạc liên tục ở Hoa Kỳ, để định h́nh cuộc tranh luận về BDS. “Tôi nghĩ rằng tôi biết một chút về sự phân biệt đối xử—tôi phải đối mặt với nó hàng ngày. Tôi mang nhiều bản sắc và liên tục, liên tục bị phân biệt đối xử,” cô ấy nói trước khi so sánh BDS của Israel với việc tẩy chay chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và chia sẻ niềm tin của cô ấy rằng “bạn không bao giờ có được ḥa b́nh nếu không có công lư.”

Một Omar khác với người đă bảo vệ BDS trên sàn nhà nước, một người đă tiếp xúc với các nhà hoạt động trên Phố J và những người ủng hộ Israel theo phe trung tả, theo đảng Dân chủ ở khu vực Twin Cities, đă xuất hiện tại sự kiện Beth El. Cô ấy đảm bảo với các cử tri rằng cô ấy không phải là người ủng hộ BDS, thứ không c̣n được coi là anh em họ của cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc nữa. “Để chúng tôi có một quá tŕnh đi đến giải pháp hai nhà nước, mọi người phải sẵn sàng ngồi vào bàn và tṛ chuyện về cách điều đó có thể thực hiện được và tôi nghĩ điều đó sẽ dừng cuộc đối thoại,” Omar bây giờ tranh luận. “Tôi tin rằng ngay bây giờ với phong trào BDS, việc đạt được giải pháp hai nhà nước đó là không hữu ích.” Luật sư Bruce Goldstein của Minneapolis cho phép Omar sử dụng văn pḥng của ḿnh để gây quỹ, nơi luật sư và ứng cử viên “nói về việc câu chuyện nhập cư của người Do Thái và người Somalia giống nhau như thế nào ... Cô ấy nói tất cả những điều đúng đắn.” Omar ví von để chiến thắng. Theo hai nguồn tin của Đảng Dân chủ Minnesota, khi Anderson Kelliher kêu gọi nhượng bộ vào đêm bầu cử, Omar tỏ ra kém nhă nhặn hơn: “Thông điệp là, bạn sẽ nhận được những ǵ bạn tổ chức. Đó là một cái tát thẳng vào mặt,” một người nói, tóm tắt cuộc tṛ chuyện. (Trong khi đó, Goldstein sau đó sẽ cho Antone Melton-Meaux, đối thủ chính của Omar, vào năm 2020, thuê không gian trong văn pḥng của ḿnh.) bạn nhận được những ǵ bạn tổ chức cho. Đó là một cái tát thẳng vào mặt,” một người nói, tóm tắt cuộc tṛ chuyện. (Trong khi đó, Goldstein sau đó sẽ cho Antone Melton-Meaux, đối thủ chính của Omar, vào năm 2020, thuê không gian trong văn pḥng của ḿnh.) bạn nhận được những ǵ bạn tổ chức cho. Đó là một cái tát thẳng vào mặt,” một người nói, tóm tắt cuộc tṛ chuyện. (Trong khi đó, Goldstein sau đó sẽ cho Antone Melton-Meaux, đối thủ chính của Omar, vào năm 2020, thuê không gian trong văn pḥng của ḿnh.)

Một trong những cuộc phỏng vấn đầu tiên của Omar với tư cách là nữ dân biểu đắc cử vào tháng 11 năm đó là với một trang web có tên là Cô gái Hồi giáo. Tuyên bố của cô ấy về BDS tại diễn đàn hóa ra là một bước đi có tính toán hoặc tệ hơn. Như chiến dịch của cô ấy đă nói với trang web, “Ilhan tin tưởng và ủng hộ phong trào BDS, đồng thời đă đấu tranh để đảm bảo quyền ủng hộ của mọi người không bị h́nh sự hóa.”

Các nhà lănh đạo Do Thái ở Minneapolis sớm nhận ra rằng Omar sẽ đưa ra một thách thức khác với thách thức mà người tiền nhiệm của cô, Keith Ellison, đă đặt ra. Được bầu vào năm 2006, Ellison là thành viên Quốc hội Hồi giáo đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Mặc dù đă t́nh nguyện đại diện cho Quốc gia Hồi giáo trong trường luật, nhưng Ellison xuất thân từ một truyền thống tiến bộ sớm hơn, thực dụng hơn Omar và những nhân vật truyền lửa trẻ trung khác của Đảng Dân chủ. Jaylani Hussein, giám đốc Hội đồng về Quan hệ Mỹ-Hồi giáo (CAIR), cho biết: “Cuộc bầu cử năm 2018 là một sự thay đổi hoàn toàn về những ǵ có thể xảy ra.

Ellison có một "đầu mối liên hệ chính" trong hệ thống của Ủy ban Các vấn đề Công cộng Israel của Mỹ để tiếp cận các thành viên Quốc hội, điều này phụ thuộc vào việc một nhà hoạt động AIPAC cụ thể có thể nói chuyện trực tiếp với đại diện quốc hội của họ trong ṿng 24 giờ hay không. Người liên hệ chính đó là Avi Olitzky, khi đó là giáo sĩ Do Thái trẻ tuổi đầy nghị lực được phong chức JTS tại Beth El. “Khi tôi liên hệ ban đầu, chúng tôi hầu như không có cuộc gặp nào,” anh ấy nhớ lại khi chúng tôi gặp nhau vào cuối năm 2019. “Năm sau, đó là cuộc gặp với một nhân viên ở hành lang. Năm sau, đó là với một nhân viên trong văn pḥng. Năm sau, đó là 30 phút với Dân biểu Ellison. Năm sau, đó là 90 phút. Và đó là một cuộc họp mà chúng tôi mong đợi ... anh ấy không nói suông,” giáo sĩ Do Thái nhớ lại.

Olitzky đă gặp Omar tại Beth El vào tháng 1 năm 2019, ngay trước khi bà nhậm chức. Omar đă không cố gắng che giấu quan điểm thực tế của ḿnh, như cô ấy đă làm tại diễn đàn bốn tháng trước đó. Khi chúng tôi gặp nhau 10 tháng sau, giáo sĩ Do Thái nhớ lại “một cuộc tṛ chuyện thực sự thú vị với Ilhan Omar về hai quốc gia, viện trợ nước ngoài, ḥa b́nh, nhà nước Palestine phi quân sự hóa, đàm phán và chống BDS. Cô ấy có hai nhận xét mà tôi biết sẽ rất khó. Đầu tiên, cô ấy nói rằng Israel bị bao vây bởi bầy sói, nhưng Israel là một con sư tử. Và đó là một cấu trúc khác với Nghị sĩ Ellison mà tôi từng có. Thứ hai, cô ấy nói: Tôi tin vào công lư và công lư là b́nh đẳng... bên nào được th́ bên kia được.” Olitzky giải thích rằng cách tiếp cận như vậy sẽ nâng cao tiền đề chính của tiến tŕnh ḥa b́nh Israel-Palestine, trong đó lấy sự tồn tại của Israel làm một trong những xuất phát điểm. “Cô ấy nói, Israel sẽ không có được một nhà nước cho đến khi người Palestine có được một nhà nước. Tôi đă nói với Đại diện Omar: 'Bạn không hiểu, bạn vừa đưa ra một tuyên bố cấp tiến.' ... Câu trả lời của cô ấy là, cứ như vậy đi. (Olitzky rời Beth El vào đầu năm 2022 để thành lập một công ty tư vấn.)

Omar sẽ không hành động theo hướng điều độ hơn hoặc cởi mở hơn để duy tŕ mối liên hệ thân thiện với các tổ chức thành lập, ngay cả khi chỉ xét đến 40.000 người Do Thái lẻ trong quận của cô ấy. Trước khi được bầu vào Quốc hội, Omar đă gặp Thượng nghị sĩ bang Ron Latz tại nhà của ông để thảo luận về cách tiếp cận của cô đối với các chủ đề liên quan đến Do Thái và Israel. Latz, người đă bảo vệ Ellison trước những cáo buộc bài Do Thái, đă cảnh giác với một ḍng tweet năm 2012 trong đó Omar đă cáo buộc Israel “thôi miên thế giới”. Như sau này ông đă nói với Twin Cities Pioneer Press, “Hầu hết chúng tôi bước ra khỏi cuộc tṛ chuyện đó đều rất bối rối trước những câu trả lời mà chúng tôi nhận được. Tôi không tin rằng cô ấy sẽ đưa ra một cách tiếp cận cân bằng đối với chính sách ở Trung Đông, và tôi không tin… trái tim của cô ấy dành cho những điều này ở đâu.” Các giáo sĩ Do Thái địa phương không thể khiến Dân biểu đắc cử Omar trả lời các cuộc gọi của họ trong tháng trước khi bà tuyên thệ nhậm chức.

Một khuôn mẫu nhanh chóng xuất hiện khi cô bắt đầu nhiệm kỳ của ḿnh ở Washington: Omar sẽ đưa ra một số tuyên bố gây tranh căi hoặc thiếu tế nhị về Israel. Sau đó, các nhà lănh đạo Do Thái từ khắp các cộng đồng sẽ gặp Omar để cố gắng giáo dục cô ấy về lư do tại sao tuyên bố của cô ấy không mang tính xây dựng hoặc tệ hơn. Sau đó, vài tuần sau, cô ấy sẽ nói điều ǵ đó khác và chu kỳ sẽ lặp lại.

Đầu tiên là ḍng tweet “Benjamins”vào tháng 2 năm 2019, trong đó Omar, hiện là thành viên của Ủy ban Đối ngoại tại Hạ viện do đảng Dân chủ kiểm soát, dường như gợi ư rằng AIPAC đă mua được ḷng trung thành của cả các đồng nghiệp trong quốc hội thuộc đảng Dân chủ và Cộng ḥa của bà. Ḍng tweet đă dẫn đến một cuộc họp tại văn pḥng của Steve Hunegs, lănh đạo Hội đồng Quan hệ Cộng đồng Do Thái địa phương, trong đó ông cố gắng giải thích lư do Mỹ ủng hộ Israel. “Tôi đă nói, Đại diện Omar, sự ủng hộ sâu sắc cho mối quan hệ Mỹ-Israel xuất phát từ ḷng yêu nước của chúng tôi,” anh ấy nhớ lại vào cuối năm 2019. Anh ấy cho cô ấy xem bức ảnh anh ấy lưu giữ trong văn pḥng của một người anh họ đă hy sinh trong trận chiến ở Thế giới Chiến tranh II ở Châu Âu, bằng chứng về cam kết của người Do Thái đối với Châu Mỹ. “Chưa đầy 10 ngày sau, cô ấy đă có mặt tại hiệu sách ở Washington để nói về ḷng trung thành kép.”

Trong lần xuất hiện tại nhà hàng và hiệu sách Busboys and Poets ở Washington vào tháng 2 năm 2019, Omar tuyên bố : “Tôi muốn nói về ảnh hưởng chính trị ở đất nước này cho rằng mọi người có thể thúc đẩy ḷng trung thành với một quốc gia nước ngoài,” một công thức mà những người cố chấp có thể dễ dàng áp dụng cho mối quan hệ của chính cô ấy với Somalia. Những b́nh luận đó đă dẫn đến cuộc đối đầu của Omar với Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi về một nghị quyết chống chủ nghĩa bài Do Thái mà Omar phản đối, với lư do không bao gồm các loại thù hận khác. Hai nhà lập pháp sẽ chôn vùi sự ḱnh địch mới nổi của họ—ít nhất là ở nơi công cộng—và đi cùng một phái đoàn quốc hội tới Châu Phi vào mùa hè năm đó.

Vào đầu tháng 3 năm 2019, khi những tranh căi về Israel vẫn c̣n mới mẻ, Omar đă tham gia một chuyến đi của quốc hội đến Eritrea, quê hương của một chế độ có hồ sơ nhân quyền giống như Bắc Triều Tiên. Cô ấy đă đưa ra một tweet duy nhấtvề chuyến thăm, trong đó không đề cập ǵ đến sự lạm dụng của chính phủ mà các quan chức mà cô ấy sẽ sớm tôn vinh qua sự hiện diện của ḿnh: “Tôi đang ở vùng Sừng châu Phi vào cuối tuần này, tự hào khi thấy ḥa b́nh thịnh vượng ở đây và là một phần của phái đoàn Mỹ đầu tiên đến Eritrea trong nhiều thập kỷ là điều tôi biết ơn. Tôi chiến đấu [v́] ḥa b́nh và công lư v́ chỉ những người trải qua nỗi đau chiến tranh mới biết được niềm vui của ḥa b́nh.” Như thể cố t́nh tạo ra một sự tương phản với cách đối xử của cô ấy với hai quốc gia, ḍng tweet xuất hiện gần cuối một chủ đề dài trong đó Omar bảo vệ luận điệu của cô ấy về Israel, tóm tắt lại phần lớn ngôn ngữ cô ấy đă sử dụng tại Busboys and Poets. Bà viết : “Tôi không nên trung thành/cam kết ủng hộ một quốc gia nước ngoài để phục vụ đất nước của ḿnh trong Quốc hội hoặc phục vụ trong ủy ban., như thể một điều như vậy đă từng được hỏi về cô ấy, nói thêm , “Tôi được nói hàng ngày rằng tôi là người chống Mỹ nếu tôi không ủng hộ Israel. Tôi thấy điều đó có vấn đề và tôi không đơn độc ... Tôi biết ư nghĩa của việc là người Mỹ và sẽ không ai nói với tôi điều ngược lại.”

Sau đó, có một chuyến đi được lên kế hoạch vào mùa hè năm 2019 tới Israel và Bờ Tây, trong đó Omar đă mời các tổ chức Do Thái địa phương xin lời khuyên về một hành tŕnh khả thi cho phái đoàn của cô ấy, trong đó có thể bao gồm Nữ nghị sĩ ủng hộ BDS Michigan Rashida Tlaib và người có lịch tŕnh liệt kê các cuộc gặp với Miftah , một nhóm ủng hộ BDS ở Bờ Tây đă lan truyền những lời phỉ báng đẫm máu và ca ngợi những kẻ đánh bom liều chết. Trong mọi trường hợp, chuyến đi đă không bao giờ xảy ra và quyết định của Israel không cấp thị thực cho các nhà lập pháp — có thể tuân theo các ḍng tweet của Tổng thống lúc bấy giờ là Donald Trump yêu cầu cấm họ nhập cảnh — đă vấp phải sự phản đối từ JCRC địa phương và Giáo sĩ Olitzky . Sau đó, vào tháng 8, Omar đă tweetmột phim hoạt h́nh của Carlos Latuff, người về đích ở vị trí thứ hai trong cuộc thi khét tiếng năm 2006 của chính phủ Iran về nghệ thuật châm biếm về Holocaust. Vào thời điểm Omar viết một cơn băo tweet vào tháng 12 năm 2019giải thích về quyết định bỏ phiếu chống lại nghị quyết ủng hộ giải pháp hai nhà nước mà chính cô ấy đă đồng tài trợ, cộng đồng Do Thái có tổ chức của Thành phố đôi gần như đă trở nên mệt mỏi với việc đối phó với cô ấy. Lănh đạo người Do Thái trong khu vực đă nhận ra rằng họ không có khả năng thực sự để thay đổi suy nghĩ hoặc hành vi của cô ấy. Hunegs, người đứng đầu Hội đồng quan hệ cộng đồng Do Thái ở Twin Cities, cho biết: “Thật không may, chúng tôi có ấn tượng rằng bức tranh đă trở nên rơ ràng hơn: Việc chống lại cộng đồng Do Thái đôi khi giống như một bối cảnh mặc định đối với cô ấy. “Bây giờ điều đó không có nghĩa là nó luôn đúng, hoặc bằng cách nào đó cô ấy luôn gây khó khăn hoặc tranh căi, bởi v́ điều đó cũng không đúng. Nhưng có một mô h́nh đáng tiếc là đốt cháy thêm những t́nh huống khó khăn thay v́ xây dựng sự đồng thuận.”

Vào khoảng thời gian nhiệm kỳ thứ hai của Omar bắt đầu vào tháng 1 năm 2021, văn pḥng của cô ấy bắt đầu tổ chức các cuộc họp hàng quư bất thường cho các tổ chức Do Thái trong quận của cô ấy, trong đó các nhóm và lănh đạo cộng đồng, bao gồm cả một số người đă công khai chỉ trích cô ấy, được mời để nêu lên mối quan ngại của họ— mặc dù nhiều hành động và tuyên bố của cô ấy kể từ đó làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu Omar có thực sự coi trọng những mối quan tâm đó hay không. Vào tháng 5, Omar và Tlaib đồng bảo trợ cho một nghị quyết tại Quốc hội tưởng niệm Nakba, tên gọi của người Palestine (có nghĩa là "thảm họa" hoặc "thảm họa") cho cuộc chiến tranh Trung Đông năm 1948, trong đó Israel đă tự vệ thành công trước nửa tá người Ả Rập xâm lược. đội quân. Nghị quyết đă mởbằng cách lên án Kế hoạch phân vùng của Liên hợp quốc cho Palestine năm 1947, kế hoạch này sẽ mang lại cho người Ả Rập Palestine một quốc gia lớn hơn nhiều so với bất kỳ điều ǵ được dự tính trong bất kỳ kế hoạch ḥa b́nh nào kể từ đó.

Vào cuối năm 2019, Omar đă rút ra một kế hoạch mồi chài và chuyển đổi lập pháp tiết lộ liên quan đến một dự luật bao gồm 35 triệu đô la xóa nợ cho Somalia. Cô ca ngợi đạo luật trong một tuyên bố chính thức — chỉ để bỏ phiếu chống lại dự luật, một gói lớn hơn mà theo cô, bao gồm những dị giáo chống tiến bộ như “tạo [ing] một cách cửa sau để loại bỏ viện trợ và bỏ đói người dân Palestine” và “công nhận [ing] sự ủng hộ dành cho Juan Guaidó với tư cách là Tổng thống của Venezuela.”

Cuộc bỏ phiếu chống giảm nợ hầu như không được chú ư bên ngoài cộng đồng người Somalia ở Minnesota. Tuy nhiên, nó là h́nh ảnh thu nhỏ của cả sự thay đổi cá nhân và chính trị đối với Omar. Những người Somalia lớn tuổi thường bày tỏ sự bối rối nhất định khi cô ấy tập trung vào cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, một nỗi ám ảnh của phương Tây không được xếp hạng cao trong số các mối quan tâm trước mắt của cộng đồng. “Trong số những người Somalia ngày nay, tôi nghĩ nhiều người hiểu đây không phải là vấn đề tôn giáo mà là tranh chấp chính trị giữa người Ả Rập và người Israel,” Ahmednasir Abdullahi, một luật sư và nhà phân tích ở Nairobi, cho biết vào cuối năm 2019. “Tôi đă thấy quận của cô ấy, nó có một số lượng đáng kể người Do Thái. Việc cô ấy chấp nhận người Palestine là một lư do không có nhiều ư nghĩa đối với tôi, hoặc tôi nghĩ đối với nhiều người Somalia.”

Vào cuối năm 2019, Omar, hiện là siêu sao của Washington, thuộc về một cộng đồng mới. Cô ấy là một người Mỹ cấp tiến ngày sau, một người có quan điểm chính trị và quan điểm của thế hệ thiên niên kỷ thành thị thuộc các nguồn gốc chủng tộc và sắc tộc trong thời đại của Bernie Sanders và Donald Trump. Ngoài ra, người chồng Somali của cô ấy không c̣n là chồng của cô ấy nữa. Omar và Hirsi chia tay vào giữa năm 2019 khi tin đồn ngoại t́nh với cố vấn chính trị tiến bộ da trắng Tim Mynett của cô tan vỡ.

Theo bạn bè, cuộc chia ly đă khiến Hirsi rơi vào tuyệt vọng sâu sắc. Anh ấy trở thành người mà một người quen mô tả là "người Hồi giáo tái sinh" và lên kế hoạch cho một chuyến đi đến Mecca, nơi anh ấy đă đến thăm vào mùa đông năm đó. Một người bạn nhớ lại đă gặp anh ấy vài ngày sau phiên ṭa ly hôn vào năm 2019. “Anh ấy rất buồn - anh ấy trở nên gầy hơn. Anh ta phàn nàn, 'Bạn có biết cô ấy đang làm ǵ với tôi không?' Tôi nghĩ anh ấy yêu cô ấy.”

Việc Omar công khai phủ nhận mối quan hệ t́nh cảm với Mynett, được biết đến qua hồ sơ ly hôn của người vợ sắp cưới của Mynett, không bao giờ đáng tin cậy. Hóa ra khoảng 51% chi tiêu cho chiến dịch tranh cử của Omar trong mùa bầu cử năm 2020 đă được chuyển đến công ty của Mynett. Giống như mọi sự kiện có khả năng không hay ho khác liên quan đến Omar, cáo buộc không trung thực và tự xử lư đơn giản là không làm tổn hại đến cô ấy.

Đối với chiến dịch tái tranh cử năm 2020 của ḿnh, Omar đă tích lũy được một rương chiến tranh trị giá hơn 5 triệu đô la, phần lớn là từ các nhà tài trợ bên ngoài tiểu bang. Sự phản đối của bà đối với Ả-rập Xê-út, sự ủng hộ thẳng thắn dành cho nhà độc tài người Venezuela Nicholas Maduro, và những lời tố cáo sâu rộng về chính sách đối ngoại của Mỹ đă khiến bà hoặc trở thành một con ruồi, một người ủng hộ tiêu chuẩn bè phái, hoặc là người dẫn đầu đảng của bà. Omar có thể sẽ có một sự nghiệp chính trị đủ dài để phát triển thành một trong những vai tṛ này.

Vào tháng 8 năm 2020, Omar đă vượt qua thách thức chính từ một người ḥa giải pháp lư và mục sư bán thời gian tên là Antone Melton-Meaux, người đă huy động được khoảng 3,2 triệu đô la trong quư 2 năm 2020 và nhận được sự chứng thực của Star Tribune . Cô ấy đă đủ lo lắng về thách thức để gửi một bưu phẩm chiến dịch chính thức vào cuối tháng 7 năm 2020 dường như cáo buộc Melton-Meaux hoạt động như một điệp viên lén lút v́ lợi ích của người Do Thái. “Chúng ta có thể tin vào tiền của Antone Melton-Meaux không?” người đưa thư hỏi, cáo buộc đối thủ của Omar ở trong “túi tiền” của cả “Phố Wall” và “Đảng Cộng ḥa” và ghi nhận những đóng góp từ ba người Do Thái giàu có mà người đưa thư nêu tên, cũng như từ “Michael, một nhà tài trợ từ Scarsdale , Newyork."

Như mọi khi, Omar có một bản năng không bao giờ cạn về những ǵ cô ấy có thể làm được. Người đưa thư không phải là một câu chuyện. Với sự tán thành từ DFL và với việc Ellison đóng vai tṛ là người đại diện cho chiến dịch tranh cử công khai, cô ấy đă đánh bại Melton-Meaux gần 20 điểm. 103.000 phiếu bầu của cô ấy nhiều hơn gần 40.000 phiếu bầu mà cô ấy đă nhận được hai năm trước đó, một tổng số đáng kinh ngạc đối với bất kỳ cuộc bầu cử sơ bộ nào của quốc hội. Cô ấy thậm chí c̣n cải thiện tỷ lệ phiếu bầu của ḿnh ở Công viên St. Louis, nơi sinh sống của hầu hết người Do Thái ở Minnesota. Quan điểm cho rằng Omar sẽ là một hiện tượng tồn tại trong thời gian ngắn - rằng những vụ bê bối và sai lầm của cô ấy sẽ khiến cô ấy diệt vong, hoặc rằng cô ấy có thể bị chờ đợi hoặc bị phớt lờ - được phơi bày như một điều viển vông.

Beth Gendler, giám đốc của Hội đồng Phụ nữ Do Thái Quốc gia của Minnesota cho đến tháng 2 năm 2022 và là người đă tham gia vào các nỗ lực của cộng đồng Do Thái nhằm thảo luận các vấn đề liên quan đến Israel với Omar trong suốt nửa đầu năm 2019, đă lưu ư với tôi vào cuối năm 2019 rằng tổ chức của cô ấy “ có một chương tŕnh nghị sự chính sách tiến bộ rộng răi mà Omar hoàn toàn ủng hộ.” Theo quan điểm của Gendler, Omar có thể có tác động tích cực đến người Do Thái của bang. Cô ấy nói “bầu không khí hiện tại đă cho chúng tôi cơ hội để có những cuộc tṛ chuyện khó khăn với bạn bè và đồng minh của chúng tôi và thay v́ công khai chỉ trích họ, hăy kêu gọi họ tham gia tṛ chuyện, đối thoại và xây dựng mối quan hệ.”

Omar đă nhận được sự chấp nhận từ ít nhất một trong những tổ chức lớn trong đạo Do Thái thể chế của Mỹ. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2021, trong bối cảnh tuyên bố gây bức xúc của cô ấy rằng các đồng nghiệp trong Nhà Dân chủ Do Thái của cô ấy đặc biệt không đủ “đối tác v́ công lư”, Omar đă đăng một lời biện hộ h́nh elip trên Twitter, viện dẫn Abraham Joshua Heschel và nhấn mạnh mối liên minh của cô ấy với người Do Thái v́ Chủng tộc và Kinh tế Justice và The Jewish Vote, các nhóm cực tả hầu như không có cộng đồng Do Thái chính thống nào theo dơi. Nhưng nó không trở nên chủ đạo hơn nhiều so với Trung tâm Hành động Tôn giáo Cải cách Do Thái giáo, chi nhánh hoạt động của giáo phái Do Thái lớn nhất đất nước, giám đốc của nó đă tweet để đáp lại chủ đề của Omar: “Cảm ơn Hạ nghị sĩ Omar v́ đă khơi dậy lịch sử này.”

Đối với nhiều người Mỹ gốc Somali ở quận Omar, các cuộc biểu t́nh sau Floyd xảy ra cùng với sự phá hủy vật chất trên diện rộng đối với các cơ sở kinh doanh và khu vực lân cận của họ.

https://www.tabletmag.com/sections/news/articles/ilhans-country

Vào cuối tháng 5 năm 2020, vụ sát hại George Floyd dưới bàn tay của Sở cảnh sát Minneapolis ở quận Omar đă gây ra các cuộc biểu t́nh lớn nhất trên toàn quốc trong lịch sử Hoa Kỳ và giải phóng một hỗn hợp năng lượng mất phương hướng. Làn sóng hy vọng và giận dữ bùng lên trên khắp đất nước, dẫn đến việc một đội NFL đổi tên, những kẻ bạo loạn đốt xe cảnh sát ở Quảng trường Union của Manhattan, và thị trưởng của gần như mọi thành phố lớn ra lệnh sơn ḍng chữ Black Lives Matter trên khắp các ngă tư trung tâm thành phố.

Đối với nhiều người Mỹ gốc Somali ở quận Omar, tất cả những điều này xảy ra cùng với sự phá hủy vật chất trên diện rộng đối với các cơ sở kinh doanh và khu vực lân cận của họ. Trên Phố Lake, huyết mạch thương mại chính ở trung tâm thành phố Minneapolis, gần như mọi cơ sở kinh doanh của người Somali đă bị đóng cửa sau ván ép ngay cả vào cuối tháng 7 năm 2020. Một nhà hàng Somali đă bị thiêu rụi chỉ bốn ngày sau khi khai trương; những người nhập cư khác đă mất gần như tất cả những ǵ họ đă gây dựng được trong hơn 25 năm ở Mỹ. Trật tự không được khôi phục cho đến khi Lực lượng Vệ binh Quốc gia Minnesota được triển khai sau nhiều đêm náo loạn.

Đối với một số người Somalia, hậu quả của vụ giết Floyd là một sự trở lại với những điều kiện mà họ đă chạy trốn gần ba thập kỷ trước đó. “Mọi người nói rằng bất cứ khi nào chúng tôi đi xuống Phố Lake, chúng tôi đều nghĩ đến Mogadishu, và chúng tôi không nằm ngoài khu rừng đó,” Nur Ahmed, quản lư của Durdur, một cửa hàng tạp hóa halal đă bị đập phá mặt tiền trong thời kỳ bất ổn, cho biết khi Tôi gặp anh ấy ở Minneapolis vào tháng 7 năm 2020. Anh ấy chia sẻ một t́nh cảm chung khác đang lan rộng giữa những người nhập cư Somali trong khu vực: “Chúng tôi nhận ra lư do tại sao người Mỹ mang theo súng. Chúng ta cần phải chịu trách nhiệm về an ninh của ḿnh.”

'Đối với một số người Somalia, hậu quả của vụ giết Floyd là một sự trở lại với những điều kiện mà họ đă chạy trốn gần ba thập kỷ trước đó.'  Phố Lake, Nam Minneapolis, ngày 28 tháng 5 năm 2020.

'Đối với một số người Somalia, hậu quả của vụ giết Floyd là sự trở lại với những điều kiện mà họ đă chạy trốn gần ba thập kỷ trước đó.' Phố Lake, Nam Minneapolis, ngày 28 tháng 5 năm 2020. MARK VANCLEAVE/STAR TRIBUNE QUA GETTY IMAGES

Tất nhiên, người Mỹ gốc Somali không phải là những người duy nhất chịu thiệt hại trong các cuộc bạo loạn hậu Floyd của Thành phố Đôi. Có những giao lộ xung quanh Phố Lake nơi mọi công tŕnh kiến ​​trúc đều bị đốt cháy: Taquerias, thực khách, tiệc tự chọn kiểu Trung Quốc, hiệu sách khoa học viễn tưởng và một khách sạn biến thành nơi trú ẩn cho người vô gia cư nằm trong số những ṭa nhà bị phá hoại, đốt cháy hoặc bị bỏ trống. Trong những tháng tiếp theo, phần lớn cảnh sát đă được rút khỏi phía nam và phía bắc Minneapolis, nơi sinh sống của nhiều cộng đồng người da đen và người nhập cư của thành phố, theo yêu cầu, được toàn thể Hội đồng thành phố ủng hộ, rằng Sở cảnh sát Minneapolis phải bị băi bỏ. Tội phạm bùng nổ: Minneapolis đă cân bằng tổng số vụ giết người năm 2019 vào đầu tháng 8 năm 2020 và tội phạm bạo lực tiếp tục gia tăng vào năm 2021.

Tuy nhiên, nhiều người Mỹ gốc Somalia ủng hộ các cuộc biểu t́nh của Floyd, đặc biệt là giới trẻ. AJ Awed, một nhà ḥa giải pháp lư và nhà hoạt động băi bỏ cảnh sát cho biết: “Điều đó cho thấy rơ ràng chúng ta đứng về phía nào của nước Mỹ. “Điều đó cho thấy chúng tôi là một phần rất quan trọng của cộng đồng người Mỹ da đen.” Nhưng một số người thắc mắc, với sự cay đắng không nhỏ, tại sao cộng đồng Somali phải trả giá bằng sự tiến bộ, và liệu nó có thể được gọi là tiến bộ hay không—đặc biệt là khi cái giá phải trả đó bị từ chối hoặc phớt lờ ngay cả bởi các đại biểu dân cử. Mohamed Kahin, người đă giúp tổ chức một buổi lắng nghe giữa các quan chức dân cử và các chủ doanh nghiệp Đông Phi bị ảnh hưởng bởi các cuộc bạo loạn, tin rằng các viên chức người Mỹ gốc Somali đă chứng tỏ rằng họ ít quan tâm đến cộng đồng của ḿnh như thế nào. “Các quan chức dân cử của Somalia chỉ là những người gác cổng,” anh ấy nói với tôi vào tháng 7 năm 2020.

Vụ phun trào Floyd xảy ra giữa một giai đoạn hỗn loạn khác trong nhiệm kỳ đầu tiên của Omar. Vào ngày 12 tháng 3 năm 2020, cô kết hôn với Tim Mynett. Các phần tử bảo thủ trong cộng đồng Somali đặt câu hỏi về cuộc hôn nhân của cô với một người không theo đạo Hồi. (Mynett, người có cha mẹ là người Do Thái, được cho là đă cải sang đạo Hồi vào khoảng thời gian họ kết hôn.) “Thế hệ trẻ không quan tâm. Những người có nhiều thông tin hơn và có tŕnh độ học vấn cao hơn cũng không quan tâm. Thế hệ cũ, những người vận chuyển dùi cui cho sự trong sáng của văn hóa — họ quan tâm,” như một nguồn tin cộng đồng Somali ở Minneapolis đă nói.

“Cha tôi luôn khuyến khích tôi 'Hăy sống cuộc sống của bạn',” Omar viết trong hồi kư của ḿnh. “Nhưng anh ấy đă cảnh báo đùa rằng, 'Đừng làm bất cứ điều ǵ khiến tôi không thể ngồi cùng các bạn của ḿnh.'”

Trong hai năm kể từ khi Floyd bị giết, Omar đă trở thành kẻ xúi giục hàng đầu về sự leo thang không hồi kết về mặt đạo đức và luận điệu của chính trị Mỹ: cáo buộc các đồng nghiệp Đảng Dân chủ của cô coi công lư chủng tộc là “chỉ là dấu thăng” v́ họ không bỏ phiếu cho một nghị quyết mà cô đă đồng ư. tài trợ cho việc phản đối sự tàn bạo của cảnh sát, đặt câu hỏi về các cam kết công bằng xă hội của những người ủng hộ Israel, và đăng tweet về “những hành động tàn ác không thể tưởng tượng được của Hoa Kỳ” để thu hút sự chú ư khi cô chất vấn Ngoại trưởng Antony Blinken về lư do tại sao Hoa Kỳ không tuân theo thẩm quyền của Ṭa án H́nh sự Quốc tế. Nhưng trở lại vào mùa hè năm 2020, trong thời điểm hỗn loạn của cả quốc gia và cá nhân, Omar dường như đưa ra một trong những tuyên bố hợp lư duy nhất về cuộc bạo loạn Floyd mà bất kỳ chính trị gia lớn nào cũng có thể tập hợp được. “Nếu bạn quan tâm đến mạng sống của Người da đen, bạn không thể phóng hỏa ở Minneapolis để mạo hiểm tính mạng của Người da đen,” cô ấy cầu xin trong cuộc họp báo ở phía nam Minneapolis vào ngày 30 tháng 5 năm 2020. “Chúng ta có thể tức giận, chúng ta có thể yêu cầu công lư, chúng ta có thể phản đối, chúng ta có thể mang nó ra đường, chúng ta có thể cho nổ tung điện thoại của những người đại diện cho bạn. Nhưng điều chúng ta không thể làm là gây ra một đám cháy có thể cướp đi sinh mạng.” Cô ấy mặc một chiếc khăn trùm đầu màu đen ảm đạm và gần như sắp khóc.

Trong một khoảnh khắc, những người gièm pha Omar có thể đánh giá cao những phẩm chất tương tự mà những người ủng hộ cô ấy rất ngưỡng mộ: Cô ấy tuân theo ư thức đúng sai bên trong mạnh mẽ, ít quan tâm đến các yêu cầu của đảng phái và phe phái, và có thể nói những ǵ người khác không có. can đảm để nói. La bàn đạo đức của cô một lần nữa buộc cô phải có một lập trường khó khăn hoặc không được ưa chuộng. Bất kể hướng dẫn bên trong nào cho phép cô ấy trở thành một trong ba thành viên ủng hộ BDS duy nhất của Quốc hội cũng giúp cô ấy mạnh dạn tố cáo các cuộc biểu t́nh bạo lực vào thời điểm mà chiến thuật này đang được các nhà hoạt động cánh tả chấp nhận.

Nhưng đây là nước Mỹ vào năm 2020 và cảm giác cân bằng yên tâm không phải là chế độ tự nhiên của bất kỳ ai, ít nhất là của một siêu sao chính trị. Một lúc trước lời cầu xin chân thành của cô ấy, một Omar rơ ràng là xúc động đă tung ra một trong những chuyến bay bóng gió đặc trưng của cô ấy. Cô nói: “Tất cả chúng ta đều biết rằng chúng ta đă cùng nhau đấu tranh để phát triển kinh doanh diễn ra trên Phố Lake. “Khi bạn chứng kiến ​​sự tàn phá đối với một trong những hành lang kinh doanh có giá trị nhất đối với các cộng đồng thiểu số ở Minneapolis, bạn biết rằng đó không phải là những người thiểu số đang gây ra sự tàn phá đó.” Điều này đă trở thành một tṛ đùa phổ biến cho một nhóm nhỏ nhưng có tiếng nói xin lỗi cho các cuộc bạo loạn ở Thành phố đôi: Rằng những người da trắng cánh hữu đă sử dụng các cuộc biểu t́nh của Floyd làm vỏ bọc để lái xe từ vùng ngoại ô và vùng nông thôn và đốt cháy người nhập cư Minneapolis. Omar không đưa ra bằng chứng nào cho tuyên bố viêm nhiễm của ḿnh. Cô ấy có lẽ không có bất kỳ thứ ǵ, v́ cuộc bạo loạn chỉ mới kết thúc vào đêm hôm trước. Đối với Omar, sự tồn tại đơn thuần của những tàn tích vẫn c̣n âm ỉ đă chứng minh rằng những người châm lửa là những người bên ngoài muốn biến những người nhập cư da màu thành nạn nhân. Bất kỳ căng thẳng nào giữa bạo loạn và công bằng xă hội đều được giải quyết trong không gian của một yêu sách không có căn cứ duy nhất, được đưa ra một cách mạnh mẽ. Không phải lần đầu tiên hay lần cuối cùng, Omar đă xác định một thực tế đáng lo ngại không tồn tại, và tự ḿnh tái tạo thế giới theo cách của ḿnh.

 

https://www.scrollmagazine.net/

https://scroll.in/magazine/

https://www.smashingmagazine.com/articles/

https://www.thescrollmag.co.uk/

https://abovethelaw.com/

 

Vô Tổ Quốc Mất Danh Dự Vô Trách Nhiệm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 11

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 10

 

THÁNG 9/2020

 

VĂN HÓA - LỊCH SỬ

 

TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lăng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lư Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Gịng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Định Chính Tà 1

  42. Phân Định Chính Tà 2

  43. Phân Định Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Gịng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 


 

 

MINH THỊ

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu