at Capitol.  June 19.1996

 

 

with Sen. JohnMc Cain

 

with Congressman Bob Barr

with General John K Singlaub

CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.

 CaliToday .NVR .Phê Bình . TriThucVN

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *

KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU

CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS

BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV

DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG  ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION

VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  3. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  4. Báo Cáo Tình Trạng Nhân Quyền

  5. China Reports US

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Vấn Đề Tôn Gíao

  13. https://live.childrenshealthdefense.org/chd-tv/

  14. https://www.thelastamericanvagabond.com/

  15. https://nhandan.vn/

  16. https://www.themoscowtimes.com/

  17. dnews.com | News of the Palouse since 1911

ADVERTISEMENT

 

Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic- Sputnik

https://www.intelligencesquaredus.org/

Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense

Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US Histor. Insider

World History - Global Times - Conspiracy - Banking - Sciences

World Timeline - EpochViet - Asian Report - State Government

 

 

https://lens.monash.edu/@politics-society/2022/08/19/1384992/much-azov-about-nothing-how-the-ukrainian-neo-nazis-canard-fooled-the-world

 

 

with General Micheal Ryan

THÁNG 08-2023

 

US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS . TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC - COVERTACTION

EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS

 AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW  NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR

POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN

NATURAL- PEOPLE- BRIGHTEON - CITY JOURNAL- EUGENIC- 21CENTURY - PULLMAN- SPUTNIK- COMPACT

   

NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM

 

 Bằng chứng giải thích tỷ lệ tử vong vượt mức do COVID-19:

10/04/2020

BỞI NIGEL HOWITT 

 

Theo Torsten Engelbrecht và Claus Kohnlein trong bài báo dưới đây, việc kết hợp nhiều loại thuốc khác nhau với liều lượng cao là lời giải thích có nhiều khả năng dẫn đến tỷ lệ tử vong quá mức trong đại dịch được cho là hơn là giả thuyết về virus chưa được chứng minh. Người đọc nên nhớ rằng chưa từng có loại virus nào được phân lập, tinh chế và chứng minh là gây ra bất kỳ căn bệnh cụ thể nào. Đây có thể là một sự thật gây sốc khi xét đến bối cảnh không ngừng có những tuyên bố được đưa ra trên các phương tiện truyền thông chính thống. Đó là sức mạnh của tuyên truyền và việc sử dụng những lời nói dối thực sự LỚN.

Bài viết dưới đây ban đầu được đăng trên trang web Real News Australia và có thể xem tại đây – realnewsautralia.com

Bởi Torsten Engelbrecht, đồng tác giả bởi Claus Köhnlein, MD

Khi bang Victoria của Úc với thủ đô Melbourne gần đây đã cho thế giới thấy kiểu phong tỏa nghiêm khắc nhất trông như thế nào—với những mệnh lệnh như cảnh sát được phép vào nhà bất kỳ ai mà không cần lệnh, lệnh giới nghiêm lúc 8 giờ hoặc thậm chí là lệnh cấm. về đám cưới—Jeffrey A. Tucker, giám đốc biên tập của Viện Nghiên cứu Kinh tế Hoa Kỳ, nhận xét: “Melbourne đã trở thành một địa ngục trần gian. Câu nói của Tacitus về đế chế La Mã hiện lên trong đầu tôi: ‚Nơi nào họ tạo ra sa mạc, họ gọi đó là hòa bình.'“

Thật vậy, những hạn chế như vậy càng trở thành một trò hề bởi vì các biện pháp phong tỏa dưới bất kỳ hình thức nào đều không có cơ sở khoa học và đã mâu thuẫn với lẽ thường. Sự tập trung cứng nhắc vào một loại virus được cho là có khả năng gây chết người có tên SARS-CoV-2 sẽ ngăn chặn nguyên nhân thực sự của cái gọi là cái chết do COVID-19 được đưa ra ánh sáng. cụ thể là việc sử dụng thử nghiệm các loại thuốc có độc tính cao.

Thực tế đơn thuần là “ở Úc kể từ tháng 3, số ca tử vong do tự tử cao hơn 50% so với con số chính thức về Covid-19,” như Tucker chỉ ra, sẽ khiến mọi người phải suy nghĩ nhiều. Hoặc hãy lấy ví dụ về ô nhiễm không khí ngoài trời: Mặc dù nó gây ra hơn 3 triệu ca tử vong sớm mỗi năm trên toàn thế giới, nhưng những người ra quyết định không nảy ra ý tưởng làm tê liệt những kẻ gây ô nhiễm bụi mịn thông qua việc phong tỏa.

Ngoài ra, cái gọi là xét nghiệm SARS-CoV-2, có kết quả “dương tính” đang được sử dụng làm lý do cho việc phong tỏa, trên thực tế là vô nghĩa về mặt khoa học . Điều này đã được minh họa bằng thực tế là thậm chí không có tiêu chuẩn vàng hợp lệ cho các xét nghiệm này, như chuyên gia về bệnh truyền nhiễm người Úc Sanjaya Senanayake đã xác nhận trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình ABC.

Tuy nhiên, trang web riêng của chính phủ Úc thừa nhận các xét nghiệm PCR COVID-19 là hoàn toàn không đáng tin cậy. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy rằng việc khóa cửa và bắt buộc đeo khẩu trang không làm giảm tỷ lệ lây truyền hoặc tử vong do COVID.

Việc đóng cửa ở Úc càng trở nên vô lý hơn nếu bạn cho rằng “tỷ lệ tử vong bình quân đầu người là khoảng 26 phần triệu trong khoảng thời gian sáu tháng,” như David James, một nhà báo của Down Under, đã tuyên bố gần đây trong một bài báo OffGuardian . Với ý chí tốt nhất trên thế giới, đây không thể gọi là đại dịch virus. Đặc biệt là vì “Giám đốc y tế ở Victoria thừa nhận rằng họ không xét nghiệm vi rút, chỉ cho rằng nếu có triệu chứng giống cúm thì đó phải là COVID-19; và cần phải nói thêm rằng số ca tử vong do cúm ở Úc đang ở mức thấp bất thường,” James cho biết thêm.

Hơn nữa, nhiều quốc gia không ghi nhận trường hợp tử vong vượt mức nào trong 6 tháng đầu năm 2020, trong khi ở Đức hay Bồ Đào Nha chẳng hạn, tỷ lệ tử vong trong giai đoạn này thậm chí còn thấp hơn những năm trước. Đây là kết quả của một phân tích có tiêu đề “Vì [những người ra quyết định] không biết họ làm gì” được thực hiện bởi Stefan Aust, cựu tổng biên tập tạp chí tin tức nổi tiếng nhất nước Đức Der Spiegel và  là nhà xuất bản của tờ nhật báo Đức từ năm 2014.  Die Welt .

Việc Đức và các quốc gia khác không có tỷ lệ tử vong vượt mức không thể được coi là thành công trong các biện pháp phong tỏa của chính phủ, như Aust giải thích. Lý do chính khiến phần lớn những người này được tuyên bố là tử vong vì hào quang là vì họ là những người rất già và đến từ khu vực chăm sóc những người bệnh nặng nhất. Và “cuộc sống của họ không thể được cứu ngay cả với các biện pháp phong tỏa xã hội chung nghiêm ngặt nhất.”

Tỷ lệ tử vong vượt mức  được giới hạn trong một khoảng thời gian rất ngắn , điều này  khiến cho  giả thuyết về virus trở nên vô nghĩa.

Chắc chắn, một số quốc gia ghi nhận số ca tử vong nhiều hơn đáng kể trong nửa đầu năm 2020 so với những năm trước. Điều này đặc biệt đúng đối với Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Bỉ, Hà Lan và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, giả thuyết cho rằng một loại virus Corona mới có khả năng gây chết người có thể hoành hành ở các quốc gia này đã mâu thuẫn với thực tế là các bang này đặc biệt theo đuổi chính sách phong tỏa cứng nhắc. Vì vậy, theo logic của suy nghĩ về virus truyền nhiễm, lẽ ra họ phải có ít ca tử vong hơn.

Ngoài ra, Bỉ, chẳng hạn, có tỷ lệ tử vong cao gấp 8 lần (trên 100.000 dân) so với nước láng giềng Đức, Tây Ban Nha cao gấp 22 lần so với Ba Lan, trong khi Bồ Đào Nha, láng giềng trực tiếp của Tây Ban Nha, không có bất kỳ tỷ lệ tử vong vượt mức nào. Nhưng một đại dịch virus gây ảnh hưởng đến các quốc gia theo cách khác nhau khó có thể xảy ra trong thời đại ngày nay.

Đây là lý do tại sao đồng tác giả của tôi, Claus Köhnlein, MD, tuyên bố trong một bức thư xuất bản vào cuối tháng 6 trên tạp chí y khoa Ärzteblatt (tạp chí y khoa) của Đức rằng thực tế là tỷ lệ tử vong rất khác nhau được báo cáo ở các quốc gia châu Âu khác nhau tạo ra lý do để nghi ngờ rằng một nguyên nhân khác chẳng hạn như liệu pháp tích cực có thể là nguyên nhân gây ra điều này.

Điều này cũng được chứng minh rõ ràng bởi thực tế là phần lớn nhất của tỷ lệ tử vong vượt mức ở các quốc gia này chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn, trong vòng khoảng hai đến ba tuần vào khoảng đầu/giữa tháng Tư. Như số liệu thống kê về tỷ lệ tử vong của Euromomo cho thấy, cũng ở các quốc gia này, đồ họa tương đối “nhàm chán” cho đến khoảng cuối tháng 3, nhưng sau đó tỷ lệ tử vong vượt mức đột ngột tăng lên, chỉ giảm mạnh trở lại vào khoảng giữa tháng 4 - theo đó phần lớn dân số những người có liên quan đều đã lớn tuổi (xem biểu đồ bên dưới, trong đó có thể thấy rõ mức tăng đột biến trong biểu đồ của Bỉ, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh).

  Điểm Z của nhiều quốc gia Châu Âu, tháng 12 năm 2019 – tháng 9 năm 2020

Nguồn:  www.sl slideshoware.net/lschmidt1170/europe-map-study

Nguồn:  https://www.euromomo.eu/graphs-and-maps/#z-scores-by-country

Như các biểu đồ cho thấy rõ ràng, trong nửa đầu năm 2020, tỷ lệ tử vong vượt mức chỉ xảy ra ở một số quốc gia châu Âu, chủ yếu ở Ý, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Pháp, Bỉ và Anh (có thể nhận biết bằng các gai trên các đường cong). Những biểu đồ này cung cấp bằng chứng không thể chối cãi rằng hiện tượng này không thể liên quan đến một loại virus mới có khả năng gây chết người. Bởi vì tỷ lệ tử vong quá mức không chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian rất ngắn, với sự gia tăng mạnh mẽ và sự sụt giảm dốc không kém của đường cong tử vong trong vòng hai đến ba tuần vào tháng Tư - và do đó cũng xảy ra ngoài mùa cúm thông thường. Không có loại virus nào có thể tạo ra những đột biến như vậy. Ngoài ra, chẳng hạn như ở Đức, mặc dù có biên giới trực tiếp với Pháp và Bỉ nhưng không có trường hợp tử vong quá mức nào xảy ra. Điều tương tự cũng áp dụng cho Áo, nước giáp ranh trực tiếp với Ý và Thụy Sĩ, và Bồ Đào Nha, nước láng giềng của Tây Ban Nha. Và trong khi Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ và Anh có tỷ lệ tử vong vượt mức đáng chú ý trong thời gian ngắn, DÙ họ đã thực hiện phong tỏa cứng rắn, Thụy Điển, quốc gia không hề áp dụng biện pháp phong tỏa nào, chỉ có tỷ lệ tử vong vượt quá rất nhẹ. Ngay cả điều này cũng không thể giải thích được bằng virus. Lý do khiến mức tăng đột biến ở Thụy Sĩ tương đối bằng phẳng là do khu vực nói tiếng Đức của đất nước núi cao, nơi thực tế không có tỷ lệ tử vong vượt mức, 2/3 tổng dân số sinh sống, trong khi tỷ lệ tử vong vượt mức được ghi nhận ở Ý và Pháp- phần nói. Vậy có phải virus đã tránh được người Thụy Sĩ nói tiếng Đức? Một ý tưởng hoàn toàn trừu tượng! Ngay cả điều này cũng không thể giải thích được bằng virus. Lý do khiến mức tăng đột biến ở Thụy Sĩ tương đối bằng phẳng là do khu vực nói tiếng Đức của đất nước núi cao, nơi thực tế không có tỷ lệ tử vong vượt mức, 2/3 tổng dân số sinh sống, trong khi tỷ lệ tử vong vượt mức được ghi nhận ở Ý và Pháp- phần nói. Vậy có phải virus đã tránh được người Thụy Sĩ nói tiếng Đức? Một ý tưởng hoàn toàn trừu tượng! Ngay cả điều này cũng không thể giải thích được bằng virus. Lý do khiến mức tăng đột biến ở Thụy Sĩ tương đối bằng phẳng là do khu vực nói tiếng Đức của đất nước núi cao, nơi thực tế không có tỷ lệ tử vong vượt mức, 2/3 tổng dân số sinh sống, trong khi tỷ lệ tử vong vượt mức được ghi nhận ở Ý và Pháp- phần nói. Vậy có phải virus đã tránh được người Thụy Sĩ nói tiếng Đức? Một ý tưởng hoàn toàn trừu tượng!

Về mặt con số, điều này có nghĩa là trong vòng vài tuần, 60 đến 70 nghìn ca tử vong đã xảy ra ở các quốc gia Châu Âu này nhiều hơn bình thường vào thời điểm này trong năm. Cộng thêm khoảng 130.000 ca tử vong ở Mỹ trong sáu tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ hai năm trước (tỷ lệ tử vong ở Mỹ trong nửa đầu năm 2020 là 0,48%, năm 2018 và 2019 là 0,44). phần trăm). Sự khác biệt duy nhất giữa các nước Châu Âu và Hoa Kỳ là mức tăng đột biến ở Mỹ rộng hơn một chút, tức là nó không chỉ kéo dài trong khoảng hai tuần của tháng Tư, và đỉnh điểm của tỷ lệ tử vong vượt mức là vào ngày 11 tháng 4, khoảng hai tuần sau đó. hơn Ý, nơi bắt đầu thảm kịch chết chóc trên toàn thế giới (xem biểu đồ bên dưới).

Số ca tử vong thực tế hàng tuần tại Hoa Kỳ do mọi nguyên nhân  so với con số dự kiến ​​tối đa (tháng 6 năm 2018 – tháng 8 năm 2020)

Nguồn:  https://www.statista.com/statistics/1168522/us-weekly-number-deaths-all- Causes -acual-vs-maximum-estimate/

Điều này cuối cùng khiến không thể giải thích rằng đó là loại virus đã giết chết hàng chục nghìn người trong đúng hai tuần trái mùa. Một loại virus như vậy đơn giản là không thể tồn tại. Và ngay cả khi một loại virus siêu chết người như vậy tồn tại thì nó sẽ phải gây ra sự tăng đột biến đáng kinh ngạc trên bảng xếp hạng của Thụy Điển, một quốc gia không hề áp dụng biện pháp phong tỏa nào. Nhưng bạn chỉ có thể nhìn thấy một bướu phẳng vào giữa tháng 4 trên biểu đồ Thụy Điển. Và tỷ lệ tử vong, tức là tỷ lệ người chết trong tổng số dân, ở Thụy Điển trong sáu tháng đầu năm 2020 là hoàn toàn nằm trong phạm vi 0,48% và chỉ cao hơn một chút so với năm 2017 và 2018 (0,46%), chẳng hạn .

Đây là lý do tại sao chỉ có thể có một lời giải thích không phải do virus cho tỷ lệ tử vong quá lớn tạm thời này. Và có bằng chứng chắc chắn cho thấy việc sử dụng số lượng lớn và liều lượng lớn các loại thuốc có độc tính cao đóng vai trò quyết định - các loại thuốc đã được sử dụng trong các thử nghiệm trên toàn thế giới và cả ngoài các thử nghiệm này, đã cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người thử nghiệm. Theo thời gian, “nguồn cung cấp bệnh nhân” cạn kiệt, điều này giải thích cho sự sụt giảm nhanh chóng của các đường cong tạo ra những đột biến này.

 

Nhìn kỹ hơn vào nước Đức cũng cho thấy điều này. Biểu đồ Euromomo ở trên của Đức thực sự chỉ giới hạn ở thủ đô Berlin. Nhưng dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Liên bang Đức cho thấy tỷ lệ tử vong hàng tuần một cách chi tiết (xem biểu đồ bên dưới). Và biểu đồ này cho chúng ta biết rằng vào tháng 3 năm 2019 chẳng hạn, có khoảng 86.500 người đã chết. “Tháng 3/2018, tức là năm dịch cúm đặc biệt nghiêm trọng, con số này là 107.100. Do đó, ngay cả khi không có đại dịch hào quang, số người chết vẫn có thể dao động đáng kể, đặc biệt là trong mùa cúm điển hình”, như trên trang web của Văn phòng Thống kê Liên bang cho biết. Do đó, một chuyến tàu tử thần do virus Corona không thể bắt nguồn từ đường cong năm 2020 với ý chí tốt nhất trên thế giới.

 

Tỷ lệ tử vong hàng tuần ở Đức  (2020, 2019, 2018, 2016-2019)

 

Biểu đồ này cho thấy ở Đức cũng có sự gia tăng đột biến nhưng nó chỉ được thấy trong cùng một khoảng thời gian ngắn (vào tháng 4) như ở các quốc gia khác, như đã đề cập, điều này làm giảm giả thuyết virus đến mức vô lý. Hơn nữa, cành tương đối bằng phẳng. Vào tháng 4 năm 2020, có thêm gần 6.600 người chết so với tháng 4 năm 2019 và nhiều hơn gần 4.200 người so với tháng 4 năm 2018. Và “kể từ tuần dương lịch thứ 19 (ngày 4 đến ngày 10 tháng 5) [của năm 2020], theo số liệu sơ bộ, số người chết là ban đầu trở lại mức trung bình của những năm trước hoặc dao động xung quanh nó“, như nó cũng cho biết trên trang web của Văn phòng Thống kê Liên bang Đức. “Đến giữa tháng 7, số người chết đã đạt mức tối thiểu. Tuy nhiên, vào tháng 8, số liệu tử vong đã tăng trở lại trong đợt nắng nóng.”

 

Mức tăng đột biến trong biểu đồ năm 2020 của Đức với tỷ lệ tử vong vượt quá vài nghìn người trong tháng 4 (so với năm 2019 và 2018) gần như tương ứng chính xác với việc tăng cường sử dụng thử nghiệm thuốc sốt rét hydroxychloroquine ở những bệnh nhân được gọi là COVID-19 (thêm về vai trò quan trọng của loại thuốc này sau này). Như tạp chí tin tức Spiegel của Đứcđã báo cáo vài ngày trước, theo một phân tích của cơ quan bảo hiểm y tế Đức AOK, loại thuốc này cũng đã được nhiều người ủng hộ ở Đức từ tháng 3 trở đi. Trong tháng này, loại thuốc này đã được kê cho gần 10.000 bệnh nhân nhiều hơn so với tháng trước - những bệnh nhân, phần lớn trong số họ đã rất già và có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng và do đó, những loại thuốc có độc tính cao đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng. Vào tháng 4 và tháng 5, số lượng sử dụng hydroxychloroquine ở Đức lại giảm xuống. Vào tháng 6, các con số này thấp hơn mức trung bình của năm trước.”

 

Trên thực tế, có vẻ như ở Đức, do cơn hoảng loạn chung về COVID 19 đặc biệt rõ ràng vào nửa cuối tháng 3, nên không có việc gia tăng thử nghiệm sử dụng thuốc có độc tính cao. Và điều đáng chú ý trong bối cảnh này là vào ngày 24 tháng 3, ngay sau cuộc phỏng vấn với đồng tác giả Claus Köhnlein, MD, đã được phát sóng trên YouTube vào ngày 20 tháng 3, trong đó ông chỉ trích việc sử dụng thử nghiệm các loại thuốc có độc tính cao (cuộc phỏng vấn có 900.000 lượt xem trong thời gian ngắn), anh nhận được cuộc điện thoại từ bác sĩ 'Charité' lúc bấy giờ tên là Felicia Kleimaier.

 

Kleimaier hỏi Claus Köhnlein liệu ông có biết rằng những tuyên bố chỉ trích của ông đã làm hỏng việc áp dụng liệu pháp kháng vi-rút liên quan đến COVID-19 hay không. Câu trả lời của anh ấy: Nếu những câu nói trong cuộc phỏng vấn của anh ấy thực sự góp phần vào việc sử dụng ít thuốc hơn đáng kể, thì anh ấy đã đạt được chính xác những gì anh ấy muốn đạt được, bởi vì liệu pháp như vậy luôn ức chế miễn dịch và do đó có thể gây tử vong, đặc biệt đối với những người đã bị bệnh nặng. mọi người.

 

Trong bức thư được đề cập gửi cho tạp chí  Ärzteblatt , đồng tác giả của tôi cũng viết: “Có thể là chúng tôi ở Đức đã thoát ra quá nhẹ nhàng vì chúng tôi dè dặt hơn về mặt trị liệu ngay từ đầu và vì những trải nghiệm tồi tệ ở Ý, Tây Ban Nha, Pháp và Anh. và do đó hầu như không sử dụng bất kỳ chất chống vi-rút ức chế miễn dịch nào.”

 

Nghiên cứu trường hợp Lancet  từ ngày 18 tháng 2 năm 2020 :

Một kế hoạch chi tiết cho tình trạng dư thừa thuốc

Việc sử dụng thuốc thử nghiệm đã trở nên khả thi nhờ các bài báo như nghiên cứu trường hợp đơn lẻ được công bố trên The  Lancet  vào ngày 18 tháng 2. Nó mô tả cách giải thích của một bệnh nhân 50 tuổi bị sốt, ớn lạnh, ho, mệt mỏi và khó thở và được phân loại là bệnh nhân Covid-19.

 

Sau đó, anh ta được điều trị bằng một đội thuốc thực sự bao gồm thuốc kháng vi-rút interferon alfa-2b, lopinavir và ritonavir, thuốc kháng sinh moxifloxacin rất cứng và cortisone liều cao (methylprednisolone) - những chất có thể gây tác dụng phụ gây chết người ngay cả khi dùng đơn độc. Hơn nữa, các mẫu mô đã được lấy trong quá trình khám nghiệm tử thi và ở đây các tác giả thậm chí còn thừa nhận rằng tổn thương gan quan sát được có thể là do thuốc gây ra. Kết luận bệnh nhân tử vong do ngộ độc thuốc là điều khó tránh khỏi.

 

Và nếu người đàn ông đang “ở độ tuổi đẹp nhất” ở tuổi 50 này và dường như không mắc bệnh gì khác ngoài các triệu chứng cúm nghiêm trọng, chết sau khi dùng “cocktail ma túy” như vậy, thì người ta có thể đoán được mức độ nghiêm trọng như vậy sẽ như thế nào. phương pháp điều trị độc hại ảnh hưởng đến những người được phân loại là bệnh nhân COVID-19 ở độ tuổi 70 hoặc 80, mắc các bệnh trước đó cho đến ung thư.

 

Nhưng tại sao các bác sĩ điều trị lại đối xử với người đàn ông 50 tuổi như vậy? Nó phải nằm ngoài tầm nhìn của đường hầm virus. Niềm tin sâu sắc rằng chỉ có ma túy mới có thể mang lại sự cứu rỗi và vì nỗi sợ hãi, điển hình cho hệ thống y tế ngày nay, đặc biệt là trong thời kỳ hoảng loạn vì đại dịch, rằng người ta có thể chưa thử một phương pháp chữa trị nào, điều này thường dẫn đến chủ nghĩa hành động về ma túy. Như trong trường hợp này.

 

Vì người đàn ông 50 tuổi đáng thương bị khó thở nên ông đã được tiêm cortisone, một chất diệt tế bào lympho để làm chậm phản ứng viêm. Mọi thứ sau đó giảm dần và cơn sốt giảm dần. Bệnh nhân tạm thời cảm thấy dễ chịu hơn, có thể thở dễ dàng hơn. Tuy nhiên, đồng thời, phản ứng phòng vệ bị ngăn chặn, cuối cùng có thể gây tử vong, như có thể thấy trong trường hợp này, đặc biệt nếu sử dụng thêm loại thuốc có khả năng gây chết người khác.

 

Tuy nhiên,  nghiên cứu của Lancet kết luận: “Bệnh nhân.. chết vì nhiễm trùng nặng với… SARS-CoV-2.” Nói cách khác: Bệnh nhân được cho là chết chỉ vì vi rút và mặc dù đã dùng thuốc chứ không phải do thuốc . Và loại nghiên cứu này, được công bố trên một tạp chí có nội dung là luật trên thực tế, được dùng như một kế hoạch chi tiết để điều trị cho bệnh nhân COVID-19.

 

Trên thực tế, chỉ vài tuần sau, các loại thuốc có độc tính cao và cũng có khả năng gây chết người đã được sử dụng quá mức, đặc biệt là ở tất cả các quốc gia nêu trên có tỷ lệ tử vong vượt mức, cả trong thực nghiệm và ngoài nhãn hiệu. Điều này có nghĩa là các loại thuốc này đã được sử dụng ngoài phạm vi được cơ quan quản lý phê duyệt - và điều này chủ yếu xảy ra ở những người già mắc bệnh nghiêm trọng ngay cả trước khi được xét nghiệm “dương tính” với COVID-19.

 

Dữ liệu hiện có mang lại ấn tượng rằng số ca tử vong gia tăng đã di cư như một làn sóng lớn trong một thời gian ngắn từ Ý qua Tây Ban Nha và Pháp đến Anh và Bỉ, sau đó tràn sang Mỹ và Brazil.

Ở Ý, đặc biệt là ở Lombardy, “cơn sốt ma túy” bắt đầu chậm nhất là vào ngày 17 tháng 3, và nó diễn ra tại các gia đình, viện dưỡng lão và phòng khám. Đối với Ý, có một thống kê tử vong ngày 9 tháng 4 năm 2020, trong đó cho biết 84% bệnh nhân tử vong được dùng kháng sinh, đặc biệt là azithromycin, 55% dùng thuốc kháng vi-rút, 33% dùng corticosteroid và 18,6% dùng kết hợp cả ba loại.

Đối với azithromycin, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đang cảnh báo công chúng rằng nó có thể dẫn đến nhịp tim bất thường có thể gây tử vong. Và thực tế thuốc kháng virus có thể gây chết người cũng đã được chứng minh. Điều này cũng áp dụng cho sự kết hợp Lopinavir-Ritonavir, cũng được dùng cho bệnh nhân 50 tuổi nêu trên.

Đối với corticosteroid, một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nhiễm trùng  vào ngày 10 tháng 4 năm 2020 đã kết luận: “Những bệnh nhân mắc bệnh nặng có nhiều khả năng cần dùng corticosteroid hơn. Việc sử dụng corticosteroid có liên quan đến việc tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân viêm phổi do virus Corona.”

Trong ấn phẩm ' Văn hóa' của Pháp, người ta đã mô tả cách thực hiện điều này trong thực tế trong một bài báo có tiêu đề “Covid-19: ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Đức, cách các bác sĩ giải quyết căn bệnh này,” trích lời nhà thần kinh học Francesco Alberti, chủ tịch của Dòng Bác sĩ Tỉnh Imperia (một phân khu của vùng Liguria giáp biên giới với Pháp), đã trở lại làm việc do đại dịch:

“Chúng tôi đang thực hiện rất nhiều thử nghiệm và thử nghiệm vì căn bệnh này rất khác nhau và mức độ nghiêm trọng ít hay nhiều tùy thuộc vào từng bệnh nhân. Nếu chỉ bị sốt và không kéo dài quá 4 hoặc 5 ngày, chúng tôi sẽ kê đơn thuốc Paracetamol. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng thuốc kháng vi-rút để hạn chế sự tiến triển của bệnh: loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất là hydroxychloroquine, biệt dược Plaquenil, kết hợp với kháng sinh, azithromycin, lưu ý rằng hydroxychloroquine có thể gây ra các vấn đề về nhịp tim. Chúng tôi cũng cung cấp các loại thuốc kháng virus khác như remdesivir và favipiravir. Trong trường hợp hệ thống miễn dịch hoạt động không ổn định, chúng tôi cũng đang thử nghiệm tocilizumab , một loại thuốc miễn dịch thường được kê đơn cho các vấn đề về thấp khớp.”

Chúng ta sẽ thảo luận về hydroxychloroquine, tiềm năng chết người và vai trò quyết định của nó cũng như remdesivir sau. Đối với tocilizumab, nó có thể gây chết người giống như azithromycin , bằng cách gây ra phản ứng dị ứng chết người. Kể từ khi loại thuốc ức chế miễn dịch này được tung ra thị trường Mỹ vào năm 2010, hơn 1.000 trường hợp tử vong đã được báo cáo cho FDA. Tuy nhiên, con số thực tế có thể còn cao hơn nhiều vì hệ thống báo cáo của FDA chỉ đề cập đến một phần nhỏ các tác dụng phụ xảy ra ở bệnh nhân.

Trong khi đó, Alberti tiếp tục: “Không có một phác đồ điều trị duy nhất. Các loại thuốc chúng tôi sử dụng là thuốc 'không có nhãn', tức là chúng tôi kê đơn ngoài chỉ định của chúng. Bộ Y tế và Cơ quan Dược phẩm Ý đã cho phép chúng tôi sử dụng những loại thuốc này, ngay cả khi chúng được kê đơn ban đầu cho các bệnh khác.”

Jean-François Timsit, Trưởng khoa Chăm sóc đặc biệt và Hồi sức các bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện Bichat ở Paris, cho biết: “Hiện tại, tỷ lệ tử vong ước tính khoảng 30% đối với những bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm. trong chăm sóc đặc biệt, với sự thay đổi tùy thuộc vào việc bệnh nhân có được đặt nội khí quản hay không [để thở máy]. Khi bệnh nhân được đặt nội khí quản, tỷ lệ tử vong tăng lên 50%.“

30% đã là một con số rất cao rồi, 50% còn hơn thế nữa. Trên thực tế, việc đặt nội khí quản (sử dụng tủ quần áo) ngày càng được sử dụng nhiều hơn vì người ta lo ngại rằng phương pháp hô hấp bằng mặt nạ ít xâm lấn hơn đáng kể sẽ có nguy cơ nhiễm vi rút cao hơn. Và điều này, mặc dù thực tế là bệnh nhân tử vong thường xuyên hơn do điều này đã được ghi nhận liên quan đến SARS vào năm 2002/2003. Cũng có bằng chứng rõ ràng về điều này trong việc điều trị bệnh nhân COVID-19. Một nghiên cứu của Lancet  từ tháng 2 đã vẽ ra một bức tranh rất ảm đạm: chỉ có 3 trong số 22 bệnh nhân được đặt nội khí quản sống sót.

Về mặt thuốc, hydroxychloroquine vốn đã được sử dụng rộng rãi cho bệnh nhân ở Ý đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khiến vô số người chết sớm. Hydroxychloroquine không phải là kẹo, nó có thể có nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng và thậm chí gây tử vong do rối loạn nhịp tim chẳng hạn. Đặc biệt nếu nó được dùng với liều lượng cao hơn, đó chính xác là những gì đã xảy ra trong quá trình điều trị những bệnh nhân được gọi là COVID-19, không chỉ ở Ý mà còn ở Tây Ban Nha, Pháp, Anh và Mỹ. Nhà dịch tễ học Harvey Risch của Yale, một trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất nhận thấy tác dụng chữa bệnh tiềm tàng của thuốc nếu dùng ở liều thấp, viết: “Tôi đồng ý về việc sử dụng quá liều hydroxychloroquine, cả từ quan điểm giảm chức năng và độc tính”.

Tại Tây Ban Nha, Agencia Española de Medicamentos y Productos Sanitarios (AEMPS)—Cơ quan Thuốc và Sản phẩm Chăm sóc Sức khỏe—đã bắt đầu phân phối rộng rãi hydroxychloroquine và biến thể chloroquine có phần độc hại hơn của nó để điều trị COVID-19 tại các bệnh viện vào ngày 16 tháng 3, thông qua việc áp dụng Quản lý thuốc trong các tình huống đặc biệt (MSE). Như Miquel Barceló từ bệnh viện Cerdanya cách Barcelona khoảng 150 km về phía bắc và trực tiếp tại biên giới với Pháp nói với  France Culturevào đầu tháng 4: “Có ít nhiều hành vi liều lĩnh liên quan đến loại thuốc này [hydroxychloroquine]… Có nhiều bệnh nhân được chăm sóc đặc biệt và nhiều trường hợp tử vong so với Occitania [trực tiếp trên trang web đối diện của Pháp]… Đối mặt với sự trôi dạt này về căn bệnh này, mọi người tự nhủ: chúng ta phải làm điều gì đó. Có lẽ việc ngừng sử dụng loại thuốc này sẽ ít hơn.”

Ngày 18 tháng 3 năm 2020: Tổng giám đốc WHO Ghebreyesus lên tiếng về cuộc tấn công ma túy thử nghiệm

Vào ngày 18 tháng 3, Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, đã tuyên bố một cuộc tấn công lớn dựa trên nghiên cứu và y học để chống lại COVID-19:

“Nhiều thử nghiệm nhỏ với các phương pháp khác nhau có thể không cung cấp cho chúng tôi bằng chứng rõ ràng, mạnh mẽ mà chúng tôi cần về phương pháp điều trị nào giúp cứu sống. Do đó, WHO và các đối tác đang tổ chức một nghiên cứu ở nhiều quốc gia để so sánh một số phương pháp điều trị chưa được thử nghiệm này với nhau. Nghiên cứu quốc tế lớn này được thiết kế để tạo ra dữ liệu mạnh mẽ mà chúng tôi cần, nhằm chỉ ra phương pháp điều trị nào hiệu quả nhất. Chúng tôi gọi nghiên cứu này là cuộc thử nghiệm ĐOÀN KẾT.”

Và trọng tâm của cuộc thử nghiệm Đoàn kết này là các loại thuốc có độc tính cao đã được đề cập sau đây: remdesivir, lopinavir/ritonavir (Kaletra), Interferon-β kết hợp với Kaletra và hydroxychloroquine và chloroquine.

“Tuy nhiên, liều lượng không được nêu rõ trong danh sách các loại thuốc sẽ được thử nghiệm của WHO, cũng như liều lượng thực tế cũng không được nêu rõ, điều đáng ngạc nhiên là trong cuộc tư vấn của WHO về liều lượng chloroquine, ngày 8 tháng 4,” Meryl Nass, một bác sĩ từ Maine, cho biết. chỉ ra trong một bài báo của Liên minh Bảo vệ Nghiên cứu Con người.

Thay vào đó, phần giới thiệu báo cáo của cuộc họp ghi chú, “Lịch trình chloroquine hoặc hydroxychloroquine được chọn cho thử nghiệm bao gồm hai liều nạp bằng đường uống (250 mg mỗi viên CQ hoặc 200 mg mỗi viên HCQ), sau đó uống liều duy trì hai lần mỗi ngày trong mười lần. ngày. Cuộc họp này được triệu tập để thảo luận về sự phù hợp của liều lượng được lựa chọn cho thử nghiệm.”

Nhưng theo Nass, tuyên bố này về “liều lượng dường như mơ hồ có chủ ý hoặc thậm chí gây hiểu nhầm, vì liều thực tế được sử dụng trong thử nghiệm Đoàn Kết là 2.400 mg trong 24 giờ đầu tiên và liều tích lũy là 9,2 gam trong 10 ngày.”

Liều cực cao này càng kỳ lạ hơn khi bạn xem xét rằng một tài liệu tham vấn không chính thức ngày 13 tháng 3 của WHO về vai trò tiềm năng của chloroquine cho thấy Quỹ Gates đã nghiên cứu dược động học của chloroquine (trong số 25 người tham gia cuộc họp này, 5 người đến từ Quỹ Gates). Và trong hồ sơ này có ghi "Liều cao hơn sẽ được xem xét để điều trị, tức là 10mg/kg cơ bản, tiếp theo là 5mg/kg hai lần mỗi ngày trong bảy ngày." Điều đó có nghĩa là, nếu đề xuất này được tuân theo, một người nặng 70 kg điển hình sẽ nhận được 700 mg bazơ, tương đương với 900 mg chloroquine, làm liều nạp và cách liều được sử dụng trong thử nghiệm Đoàn kết một năm ánh sáng. 2,4 g trong 24 giờ đầu.

Lưu ý rằng cả chloroquine và hydroxychloroquine đều rất khó phân hủy nên liều lượng có tác dụng tích lũy và chúng được sử dụng trong trợ tử. Năm 1986, tạp chí Zeitschrift für Rechtsmedizin của Đức  đã đăng bài báo “Tod nach Gabe von 1250 mg Chloroquine bei Porphyria cutanea tarda” (Chết sau khi dùng 1,25 g chloroquine trong [bệnh chuyển hóa] Porphyria cutanea tarda). Các nguồn khác đưa ra liều gây chết người ở mức 2 đến 3 g.

Năm 1979, WHO đã thuê một nhà tư vấn tên là H. Weniger để khám phá độc tính của chloroquine. Ông đã xem xét 335 đợt ngộ độc ở người lớn bằng chloroquine. Weniger ở trang 5 lưu ý rằng một liều duy nhất từ ​​1,5 đến 2,0 g chloroquine base [= tương đương với 1,9 đến 2,6 g chloroquine] có thể gây tử vong.” Và liều lượng được sử dụng trong thử nghiệm Đoàn kết, điều này nên được đề cập ở đây một lần nữa, là 2,4 g chỉ trong 24 giờ đầu tiên.

Theo Nass, “Tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng 'chloroquine có một lượng độc tố nhỏ đối với phạm vi điều trị'”, như có thể đọc trong Trường hợp khẩn cấp về chất độc của Goldfrank. Nass viết: “Nó rất an toàn khi sử dụng đúng cách cho đúng bệnh nhân, nhưng thêm một chút nữa có thể gây tử vong. Giáo sư Nicholas White, người đã tham dự cả hai cuộc tham vấn của WHO về chloroquine, đã đề cập đến điều này.”

Điều này càng trở nên trầm trọng hơn bởi thực tế là báo cáo của WHO về cuộc họp về tình trạng liều lượng chloroquine, “Mặc dù phần lớn ý kiến ​​nghiêng về hồ sơ lợi ích-rủi ro hợp lý cho biện pháp can thiệp, nhưng vẫn có một số hoài nghi về những gì được coi là 'thu thập dữ liệu an toàn tối giản'. ' hiện được bao gồm trong giao thức.” Bình luận của Nass: “Phác đồ liều cao đang được sử dụng trong các thử nghiệm của Đoàn kết không có lý do chính đáng về mặt y tế. Thiết kế thử nghiệm, với việc thu thập dữ liệu an toàn hạn chế, có thể gây khó khăn hơn trong việc xác định tác dụng độc hại của thuốc so với các thử nghiệm thuốc tiêu chuẩn. Điều này hoàn toàn phi đạo đức.”

 

Tuy nhiên, nhiều quốc gia trên toàn cầu đã tham gia thử nghiệm Đoàn kết, trong số đó có Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ - những quốc gia có tỷ lệ tử vong vượt mức đáng chú ý (giới hạn trong tháng 4).

Vào cuối tháng 3, không ai khác ngoài Tổng thống Mỹ Trump đã ca ngợi hydroxychloroquine là “món quà từ Chúa”, điều này chắc chắn đã làm tăng thêm sự khao khát về loại thuốc này cũng như niềm tin vào khả năng chữa bệnh của chúng. Nhưng khi hứa hẹn cái tên có ý nghĩa “Đoàn kết” và sự tôn vinh Trump, toàn bộ sự việc đã kết thúc trong thảm họa, cũng do điều trị quá mức bằng hydroxychloroquine, mà trong nhiều trường hợp đã được dùng cùng với các loại thuốc độc hại khác.

Mức độ nguy hiểm của chloroquine đã được chứng minh ở Brazil. Vào ngày 13 tháng 4, Chicago Tribune  đưa tin rằng một nghiên cứu ở Brazil, nơi “các hướng dẫn quốc gia khuyến nghị sử dụng chloroquine ở bệnh nhân nhiễm virus corona” đã bị dừng sớm vì lý do an toàn sau khi bệnh nhân nhiễm virus corona dùng liều chloroquine cao hơn phát triển nhịp tim không đều làm tăng nguy cơ mắc bệnh. một chứng rối loạn nhịp tim có khả năng gây tử vong. Bệnh nhân trong thử nghiệm cũng được dùng kháng sinh azithromycin, loại thuốc có nguy cơ mắc bệnh tim tương tự.

Tiến sĩ David Juurlink, bác sĩ nội khoa và người đứng đầu bệnh viện cho biết: “Đối với tôi, nghiên cứu này truyền tải một thông tin hữu ích, đó là chloroquine gây ra sự gia tăng phụ thuộc vào liều lượng dẫn đến sự bất thường trong điện tâm đồ, có thể khiến mọi người tử vong đột ngột do tim”. bộ phận dược lý lâm sàng tại Đại học Toronto, đề cập đến điện tâm đồ, đọc hoạt động điện của tim.

Khoảng một nửa số người tham gia nghiên cứu được dùng liều 450 miligam chloroquine hai lần mỗi ngày trong 5 ngày, tổng cộng là 4,5 g, trong khi số còn lại nên dùng liều cao hơn 600 miligam mỗi 12 giờ trong 10 ngày, tổng cộng là 12 g. Trong vòng ba ngày, các nhà nghiên cứu bắt đầu nhận thấy tình trạng rối loạn nhịp tim ở những bệnh nhân dùng liều cao hơn. Đến ngày điều trị thứ sáu, 11 người trong số những người thử nghiệm đã chết, dẫn đến giai đoạn thử nghiệm liều cao phải kết thúc ngay lập tức.

Thụy Sĩ:  Chỉ bộ phận   nói tiếng Đức  thoát khỏi tỷ lệ tử vong quá mức

Thực tế là các phương pháp điều trị bằng thuốc được cho là nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ tử vong vượt mức được quan sát thấy đặc biệt rõ ràng ở Thụy Sĩ. Tại đất nước này, 16 bệnh viện đã tham gia nghiên cứu Đoàn kết, trong đó có Bệnh viện Đại học Lausanne. Lý do là ở vùng núi cao, số ca tử vong chủ yếu đến từ vùng Ticino nói tiếng Ý và vùng nói tiếng Pháp của đất nước, trong khi vùng nói tiếng Đức phần lớn không xảy ra, như dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Liên bang cho thấy. Và bang Zurich nói tiếng Đức với 1.521.000 dân có số người chết ít hơn Ticino với một phần dân số Zurich (353.000 dân). Ý tưởng cho rằng virus có thể tấn công các nhóm dân tộc theo những cách khác nhau như vậy là hoàn toàn phi lý.

Những cái chết cũng xảy ra gần như “nhanh như chớp”, điều này cũng nói lên rõ ràng sự chống lại giả thuyết virus. Ví dụ, đây là những gì đã xảy ra tại viện dưỡng lão và hưu trí St. Antonius ở Saas-Grund. Như truyền hình Thụy Sĩ đưa tin, ca xét nghiệm “dương tính” đầu tiên diễn ra vào ngày 1 tháng 4, ca tử vong đầu tiên vào ngày 17 tháng 4, và ngay sau đó 14 người khác chết, tức là tổng cộng gần một phần ba cư dân trong ngôi nhà đã qua đời rất nhanh chóng. “Chúng tôi có nhiều cư dân, những người tương đối khỏe mạnh và đang trên đường hồi phục, và trong bảy đến tám ngày, chúng tôi có cảm giác rằng mọi người đã vượt qua khó khăn, và đột nhiên mọi thứ trở nên rất tồi tệ,” quản lý Patricia Pfammatter nói. “Trong vòng vài giờ, chúng không còn phản hồi một phần nữa, ở giai đoạn cuối, bạn có thể biết rằng chúng sắp kết thúc.”

Meryl Nass chỉ trích: “Có vẻ như các thử nghiệm của Đoàn kết không kiểm tra lợi ích của hydroxychloroquine đối với Covid-19 mà là kiểm tra xem bệnh nhân có dung nạp được những liều độc hại, không dùng để điều trị hay không”.

Pháp: Thử nghiệm nhiều loại thuốc

Các nghiên cứu của Đoàn kết cho đến nay không phải là những thử nghiệm thực nghiệm duy nhất. Vào ngày 22 tháng 3, INSERM, cơ quan nghiên cứu y sinh của Pháp, tuyên bố sẽ điều phối một thử nghiệm bổ sung ở châu Âu, có tên là Discovery, sẽ theo gương của WHO và sẽ bao gồm 3200 bệnh nhân từ ít nhất bảy quốc gia, trong đó có 800 bệnh nhân từ Pháp. Người ta nói rằng cuộc thử nghiệm sẽ thử nghiệm các loại thuốc tương tự, ngoại trừ chloroquine.

Vào ngày 8 tháng 4,  Newsweek  đưa tin Bệnh viện Đại học ở Nice (CHU), nơi được chọn cho nghiên cứu Discovery vào ngày 22 tháng 3, đã phải ngừng phương pháp điều trị thử nghiệm bằng hydroxychloroquine. Trong cuộc phỏng vấn với nhật báo Pháp  Nice-MatinEmile Ferrari, Trưởng khoa Tim mạch tại Bệnh viện Pasteur, trực thuộc CHU, cho biết một số bệnh nhân lẽ ra phải ngừng điều trị vì nguy cơ rối loạn nhịp tim. Theo Ferrari, nguy cơ mắc bệnh tim sẽ tăng lên nếu dùng thêm kháng sinh azithromycin. Ferrari cho biết đối với một số bệnh nhân được điều trị bằng những loại thuốc này, thuốc còn có hại hơn chính căn bệnh đó. Tạp chí Deutsche  Apotheker Zeitung  (Báo Dược sĩ Đức) của Đức đã đưa tin: “Những quan sát mới này khá quan trọng, vì sự kết hợp này hiện đang được thử nghiệm trong nhiều nghiên cứu về COVID-19 khác”.

Đối với Pháp, cuộc thử nghiệm ma túy quy mô lớn cũng đã diễn ra ở đó. Vào ngày 23 tháng 3, tờ báo  L'Express đưa tin  rằng Hội đồng Y tế Công cộng Cấp cao (Haut Conseil de santé publique) “khuyến khích các bác sĩ đưa càng nhiều bệnh nhân càng tốt vào các thử nghiệm điều trị khác nhau đang được tiến hành ở nước ta vì đây là cách chắc chắn nhất để nhanh chóng xác định liệu việc điều trị có hiệu quả hay không.” Và theo danh sách các loại dự án trị liệu COVID-19 khác nhau được công bố lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 4, nhiều loại thuốc khác nhau, trong số đó có remdesivir , Kaletra hoặc hydroxychloroquine , đã được đề cập.

Và như một tài liệu hướng dẫn chính thức của Bỉ ban hành vào ngày 8 tháng 6 năm 2020, cho thấy, hydroxychloroquine liều cao cũng đã được sử dụng trong thử nghiệm Discovery ở EU và WHO.

Liều lượng hydroxychloroquine trong thử nghiệm Recovery  ở mức độ  gây chết người

Chúng ta còn lâu mới đi đến cuối con đường học tập! Vào ngày 3 tháng 4, chính phủ Vương quốc Anh thông báo, “gần 1.000 bệnh nhân từ 132 bệnh viện khác nhau [ở Vương quốc Anh] đã được tuyển dụng chỉ sau 15 ngày và hàng nghìn người khác dự kiến ​​sẽ tham gia thử nghiệm Đánh giá ngẫu nhiên về Liệu pháp COVID-19 (PHỤC HỒI) ở trong những tuần tới, biến đây thành cuộc thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng lớn nhất về các phương pháp điều trị COVID-19 tiềm năng trên thế giới. Cuộc thử nghiệm đang thử nghiệm một số loại thuốc. Chúng bao gồm Lopinavir-Ritonavir , [thuốc chống viêm] Dexamethasone, Hydroxychloroquine. “Thử nghiệm Recovery cũng được thiết kế để kiểm tra azithromycin và tocilizumab đã được đề cậpcũng như REGN-COV2, được mô tả là “sự kết hợp của các kháng thể đơn dòng chống lại coronavirus.”

Thử nghiệm Phục hồi—được tài trợ một phần bởi Quỹ Welcome Trust và quỹ Bill & Melinda Gates—đã được tiến hành với tốc độ chưa từng thấy, thu hút hơn 11.000 bệnh nhân từ 175 bệnh viện NHS ở Anh trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Nhưng sau đó, nhánh hydroxychloroquine của nghiên cứu đã bị ngừng sử dụng. Cơ sở lý luận là: “Những dữ liệu này loại trừ một cách thuyết phục bất kỳ lợi ích tử vong có ý nghĩa nào của hydroxychloroquine ở những bệnh nhân nhập viện vì COVID-19.” Nhưng đây là một cách nói uyển chuyển đã bóp méo hoàn toàn thực tế vì không dưới một phần tư (25,7%) số người được điều trị bằng hydroxychloroquine đã chết.

Trên thực tế, điều này không thực sự đáng ngạc nhiên khi bạn nhìn vào liều lượng hydroxychloroquine giống với một trong những thử nghiệm của Đoàn kết. Như Martin Landray, giáo sư y khoa tại Đại học Oxford và đồng trưởng nhóm thử nghiệm Recovery có trụ sở tại Vương quốc Anh cho biết trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo trực tuyến Pháp France- Soir vào ngày 6 tháng 6, “Đó là 2400 mg trong 24 giờ đầu tiên và 800 mg trong 24 giờ đầu tiên.” mg từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 10. Tổng cộng đó là một đợt điều trị kéo dài 10 ngày. “Tổng cộng là gần 10 g, trong đó riêng ngày đầu tiên là 2,4 g.

Ngoài ra, liều lượng không tính đến cân nặng, chức năng thận và gan, như Meryl Nass đã chỉ ra. “Và 2,4 g trong 24 giờ đầu tiên đã được dùng cho những bệnh nhân Covid-19 vốn đã ốm nặng, phải nhập viện, một liều lượng có thể gây tử vong.”

Landray được hỏi, “Có bất kỳ liều lượng tối đa nào cho hydroxychloroquine ở Anh không?”, Landray trả lời một cách nghiêm túc: “Tôi sẽ phải kiểm tra nhưng nó lớn hơn nhiều so với 2400mg, gấp sáu hoặc 10 lần như vậy.” Và sau đó : “Có bất kỳ liều lượng nào đối với hydroxychloroquine ở Vương quốc Anh được Cơ quan quản lý thuốc và sản phẩm chăm sóc sức khỏe, MHRA coi là gây chết người không?” Landray: “Các bác sĩ điều trị không báo cáo rằng họ nghĩ rằng bất kỳ trường hợp tử vong nào là do hydroxychloroquine . Chúng tôi đã ngừng sử dụng hydroxychloroquine , không phải vì an toàn mà vì nó không có tác dụng. Đối với một căn bệnh mới như COVID, không có quy trình dùng thuốc nào được phê duyệt. Nhưng liều lượng HCQ được sử dụng không khác với liều lượng được sử dụng, chẳng hạn như trong bệnh lỵ amip.”

Điều tra viên chính của phiên tòa Recovery, Peter Horby, cho rằng  France Soir  đã hiểu sai nhận xét của Landray, nhưng  France Soir  hoàn toàn có thể bác bỏ những lời chỉ trích.

Vì vậy, những phát biểu của Landray chỉ khiến người ta phải lắc đầu chứ chưa nói đến sự kinh ngạc. Liều lượng khuyến nghị tối đa của Vương quốc Anh đối với hydroxychloroquine với khuyến nghị liều lượng tối đa hàng ngày là 6,5 mg mỗi kg hoạt chất, tức là khoảng 500 mg mỗi người mỗi ngày đối với các bệnh lý đã biết đã không được tôn trọng. Và liều lượng trong thử nghiệm Recovery ở Anh trong 24 giờ đầu (2.400 mg) thậm chí còn cao hơn cả 'L'autorisation de mise sur le Marché' (AMM) ở Pháp coi tỷ lệ quá liều ở mức 25mg/kg hydroxychloroquine, tức là đối với một bệnh nhân nặng 75kg, 1875mg trong một ngày, cần được đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay lập tức.

Hơn nữa, liều lượng Phục hồi cao hơn nhiều so với khuyến nghị của Hiệp hội Y tế Thế giới (WMA) tại Pháp, như  France- Soir đã báo cáo trong bài báo “Thử nghiệm phục hồi: Brexit và quá liều” vào ngày 8 tháng 6 năm 2020.

Các thử nghiệm Phục hồi và Đoàn kết đột ngột kết thúc nghiên cứu hydroxychloroquine của họ lần lượt vào ngày 5 tháng 6 và ngày 17 tháng 6 — thật trùng hợp khi mọi người bắt đầu nhận thấy liều lượng quá mức, đặc biệt là trên Twitter (hashtag #Recoverygate).

Điều kỳ lạ là vào ngày 28 tháng 5, Ủy ban Kiểm soát Phục hồi chỉ ra rằng vẫn không có vấn đề gì với hydroxychloroquine và do đó khuyến nghị rằng việc tuyển dụng nên được tiếp tục không gián đoạn cho đến cuộc họp tiếp theo, dự kiến ​​vào ngày 11 tháng 6. Và điều này, mặc dù vào tháng 5 Vào ngày 22 tháng 12, một nghiên cứu của Lancet trên 96.000 hồ sơ bệnh nhân cho thấy tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân dùng hydroxychloroquine cao hơn nhiều so với nhóm đối chứng và tỷ lệ tử vong thậm chí còn cao hơn ở những đối tượng dùng hydroxychloroquine cộng với macrolide như  azithromycin .

Nhưng tin xấu cứ tăng lên. Vào ngày 29 tháng 5, Hội đồng Nghiên cứu Y tế Ấn Độ đã cảnh báo WHO về liều lượng hydroxychloroquine cực cao trong thử nghiệm Recovery, cao gấp 4 lần so với liều lượng được sử dụng trong các thử nghiệm ở Ấn Độ. Và vào ngày 4 tháng 6, Cơ quan quản lý thuốc và sản phẩm chăm sóc sức khỏe của Vương quốc Anh đã yêu cầu Recovery xem xét dữ liệu về hydroxychloroquine. Nhân tiện, Bộ trưởng Bộ Y tế Pháp cũng đã làm điều tương tự vào ngày 23 tháng 5 năm 2020. Bốn ngày sau, chính phủ quyết định ngừng sử dụng hydroxychloroquine sau khi nhận được báo cáo bất lợi về việc sử dụng nó của Cơ quan An toàn Thuốc và Dược phẩm Quốc gia. Sản phẩm sức khỏe.

Rút lại  nghiên cứu hydroxychloroquine của Lancet :

Sau đó, vào ngày 4 tháng 6,  Lancet đã rút lại nghiên cứu toàn diện cho thấy khả năng gây tử vong cao của  hydroxychloroquine cộng với một loại kháng sinh.

Hãy tự hỏi: chuyện gì đang xảy ra ở đây? Nghiên cứu của Lancet đã bị rút lại sau khi các nhà đánh giá ngang hàng độc lập thông báo cho ba tác giả nghiên cứu rằng Surgisphere, một công ty có trụ sở tại Chicago cung cấp và tóm tắt dữ liệu bệnh nhân thô của bệnh viện, sẽ không chuyển toàn bộ dữ liệu, hợp đồng khách hàng và báo cáo kiểm toán ISO đầy đủ cho họ. máy chủ để phân tích. Nhưng thực tế đến mức nào khi giả định rằng các tác giả của nghiên cứu đã biên soạn nó mà không nghiên cứu dữ liệu thô và nghiên cứu này đã trải qua quá trình bình duyệt và đã được phê duyệt để xuất bản mà không cần xem xét dữ liệu trước đó? Một trong những tác giả là bác sĩ tim mạch Mandeep Mehra của Đại học Harvard, được cho là “một trong những ngôi sao của lĩnh vực này” và “là một mũi tên thẳng như bạn có thể tìm thấy”.

Có cần thiết phải rút lại nghiên cứu này không? Roger Lord, Nghiên cứu viên của Bệnh viện Prince Charles ở Brisbane và giảng viên khoa học y tế tại Đại học Công giáo Úc hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu nghiên cứu Lancet không bị dán nhãn là đáng ngờ hoặc thậm chí là giả mạo, “khi đó, tất nhiên, bạn sẽ có rất nhiều thiệt hại tài sản thế chấp nếu bệnh nhân không sống sót sau quá trình điều trị.” Thật vậy, đây có thể là bằng chứng cuối cùng cho thấy hydroxychloroquine được sử dụng với liều lượng cao là một “kẻ giết người” tiềm năng và do đó đã cướp đi sinh mạng của vô số bệnh nhân trên khắp thế giới. Và sau đó, chẳng phải việc thoát khỏi vụ việc với dữ liệu gây chết người của Nghiên cứu Phục hồi về hydroxychloroquine cũng sẽ khó khăn hơn nhiều sao ?

Hoặc có thể đó là một trò chơi đôi? Đầu tiên, vào ngày 22 tháng 5, hydroxychloroquine đã bị loại khỏi vòng lửa khi xuất bản một nghiên cứu trên Lancet  nhằm đưa các loại thuốc khác như remdesivir  ra khỏi vòng lửa – và sau đó, vào ngày 5 tháng 6,  hydroxychloroquine  đã được đưa ra khỏi vòng lửa bằng cách rút lại lệnh cấm. nghiên  cứu Lancet cũng như việc chấm dứt các thử nghiệm Phục hồi và Đoàn kết (ngày 5 và 17 tháng 6) bằng cách tuyên bố rằng nó không hiệu quả (thay vì nói sự thật rằng loại thuốc này đã được sử dụng với liều lượng có thể gây tử vong), từ đó đã gây ra như vậy nhiều cuộc thảo luận và nhầm lẫn đến nỗi chủ đề “tác dụng gây chết người của thuốc” đã bị lãng quên.

Martin Landray, đồng trưởng nhóm nghiên cứu Phục hồi ở Vương quốc Anh, tôi có phải là người kém cỏi và nguy hiểm không?

Một câu hỏi rất quan trọng khác được đặt ra bởi Christian Perronne, giáo sư về các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới, ở Pháp Soir : Làm thế nào Landray có thể nghiêm túc đưa ra tuyên bố này về liều lượng tối đa cho hydroxychloroquine ở Anh? “Tôi sẽ phải kiểm tra nhưng nó lớn hơn nhiều so với 2400mg, khoảng sáu hay 10 lần?”

“Năm 1975, khi tôi thực tập y khoa tại bệnh viện Claude Bernard, ngôi đền của các bệnh truyền nhiễm, tôi thấy rất nhiều bệnh amip và thuốc chloroquine không được dùng để điều trị căn bệnh đó. Đây là lần đầu tiên tôi biết được từ Martin Landray rằng chúng tôi sử dụng hydroxychloroquine trong bệnh lỵ amip với liều lượng siêu độc cho con người. Phương pháp điều trị cổ điển đối với bệnh amip ở đại tràng là kết hợp hydroxyquinoline giữa tiliquinol và tilbroquinol , tên thương mại là Intetrix.“

Perronne nói thêm “Landray đã nhầm lẫn hydroxychloroquine với hydroxyquinoline . Người đàn ông này, người tự gọi mình là bác sĩ, là người bất tài và nguy hiểm. Điều này thật tai tiếng.”

Bình luận của  France Soir là thế này : “Các bạn Anh, các bạn có thể sẽ rời khỏi Châu Âu (chúng tôi rất tiếc), nhưng chính phủ của các bạn dường như đang phục vụ các bạn bằng một lời nói dối.”

Câu hỏi vẫn là, tại sao Landray nói với  Pháp rằng Soir hydroxychloroquine không gây chết người và họ ngừng sử dụng nó không phải vì an toàn mà vì nó không có tác dụng”?

Và câu trả lời là tỷ lệ tử vong của nhóm so sánh nhánh hydroxychloroquine (ngẫu nhiên theo tiêu chuẩn chăm sóc) trong thử nghiệm Recovery là 23,6% và do đó không thấp hơn nhiều so với các đối tượng dùng hydroxychloroquine (25,7%). Nhưng có điều gì đó rất kỳ lạ ở đây vì con số 23,6% là cao bất thường. France Soir viết: “Tỷ lệ này là 18,1% ở Pháp và 12,9% ở Bouches-du-Rhône (bộ phận nơi Didier Raoult đặt trụ sở)  .

Trong một nghiên cứu được công bố trên  Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ  vào ngày 11 tháng 5 năm 2020, trên những bệnh nhân nhập viện nặng so sánh  hydroxychloroquine  cộng với  azithromycin  với  hydroxychloroquine đơn thuần, với  azithromycin đơn thuần và không dùng thuốc nào, giá trị là 12,7%. Một nghiên cứu khác được công bố trên  Tạp chí Y học New England  cho thấy tỷ lệ tử vong là 32,3% đối với nhóm hydroxychloroquine và 14,9% đối với nhóm đối chứng.

Hai nghiên cứu sau tập trung vào bang New York. Điều đó có nghĩa là, chúng ta có một kết quả đơn giản là số bệnh nhân tử vong ở khu vực New York tăng gấp đôi khi họ dùng hydroxychloroquine .

Nếu bạn nghĩ mọi chuyện không thể tệ hơn được nữa thì bạn đã nhầm. Có một nghiên cứu khác được khởi xướng – REMAP. Điều này nhắm vào những bệnh nhân đang thở máy hoặc bị sốc, tức là cận kề cái chết, sử dụng cùng một liều nạp hydroxychloroquine (2,4 g trong 24 giờ đầu) như thử nghiệm Phục hồi và Đoàn kết và tổng liều 6,4 g trong vòng sáu ngày. Nhưng nó thậm chí còn tệ hơn vì những lý do sau, như bác sĩ Meryl Nass đã chỉ ra:

1. Với tư cách là một người tham gia, bạn phải cận kề cái chết, dù đang thở máy hoặc bị sốc, đang dùng thuốc điều hòa huyết áp, để được đưa vào thử nghiệm, theo tài liệu thử nghiệm.

2. Bạn có thể dùng  hydroxychloroquine một mình hoặc kết hợp với 2 loại thuốc nữa, lopinavir/ritonavir, như đã đề cập, có thể không chỉ gây tử vong. Tuy nhiên, lopinavir/ritonavir có xu hướng kéo dài khoảng QT, cũng như hydroxychloroquine (kéo dài khoảng QT là thước đo quá trình tái cực tâm thất bị trì hoãn, có nghĩa là cơ tim mất nhiều thời gian hơn bình thường để nạp lại năng lượng giữa các nhịp đập). Và nhãn thuốc ghi rõ: “Tránh sử dụng kết hợp với thuốc kéo dài khoảng QTc hoặc PR”.

3. Những bệnh nhân bị sốc hoặc đang thở máy có thể không thể đồng ý đăng ký tham gia thử nghiệm lâm sàng. Nhưng các nhà điều tra thử nghiệm cho rằng có thể không cần phải có sự đồng ý: “Đối với những bệnh nhân không đủ thẩm quyền để đồng ý, có thể áp dụng thỏa thuận tiềm năng hoặc tham gia thông qua việc từ bỏ sự đồng ý hoặc một số hình thức đồng ý hoãn lại, theo yêu cầu của đánh giá đạo đức phù hợp. thân hình."

4. Đối với những bệnh nhân quá nặng không thể nuốt được viên thuốc, thuốc sẽ được truyền qua ống truyền dinh dưỡng. Điều này có thể đòi hỏi một thủ tục bổ sung cho bệnh nhân.

Các thử nghiệm Remap diễn ra tại 200 địa điểm ở 14 quốc gia, trong đó có Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh và Mỹ, tất cả các quốc gia đều có tỷ lệ tử vong vượt mức trong một khoảng thời gian tương đối ngắn.

Lừa đảo remdesivir

Cuối cùng, lời nói về remdesivir , đã được phê duyệt vào ngày 2 tháng 5 năm 2020, trong bối cảnh COVID-19 chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Vài ngày trước, giám đốc NIAID Anthony Fauci tuyên bố rằng một nghiên cứu cho thấy remdesivir sẽ giảm thời gian hồi phục và giảm tỷ lệ tử vong. Nhưng đây chỉ có thể được coi là một vụ bê bối khác trong đó Fauci đóng vai trò trung tâm.

Một bài báo trong Liên minh Nghiên cứu và Bảo vệ Con người (AHRP) có tựa đề “Sự cường điệu quảng cáo của Fauci làm thuốc remdesivir của Gilead ”, chủ đề nhức nhối sau đây đã được đưa ra:

“Fauci có mối quan tâm đặc biệt đến remdesivir . Ông đã tài trợ cho cuộc thử nghiệm lâm sàng mà kết quả chi tiết chưa được bình duyệt. Hơn nữa, ông tuyên bố kết quả mong manh là “rất có ý nghĩa” và tuyên bố remdesivir là “tiêu chuẩn chăm sóc” mới. Fauci đưa ra tuyên bố quảng cáo khi đang ngồi trên ghế dài trong Nhà Trắng mà không cung cấp thông tin chi tiết; không có thông tin tóm tắt tại một cuộc họp y tế hoặc trên một tạp chí khoa học—như một thông lệ và thông lệ, để cho phép các nhà khoa học và nhà nghiên cứu xem xét dữ liệu. Khi được hỏi về một nghiên cứu gần đây của Trung Quốc về remdesivir , đăng trên The Lancet(ngày 29 tháng 4 năm 2020); trong đó một thử nghiệm đã bị dừng lại do các tác dụng phụ nghiêm trọng ở 16 (12%) bệnh nhân so với 4 (5%) bệnh nhân dùng giả dược, Fauci đã bác bỏ nghiên cứu này là 'không đầy đủ'.

Điều mà Fauci cũng không tiết lộ cho công chúng trong tuyên bố quảng cáo của mình là kết quả chính của nghiên cứu dẫn đến việc phê duyệt sử dụng khẩn cấp đã thay đổi vào ngày 16 tháng 4 năm 2020. Những thay đổi về kết quả chính được đăng trên Clinictrials.gov. Trước đây có thang điểm 8, bao gồm cả bệnh nhân đã chết, từ đó trở đi chỉ có thang điểm 3, loại bệnh nhân đã chết ra khỏi phương trình, đồng thời chỉ đo thời gian cho đến khi phục hồi hoặc được xuất viện.

Megastar đầu tiên được coi là bệnh nhân COVID-19 và chết sau khi tiêm  thuốc remdesivir là Roy Horn, huyền thoại pháp sư. Trên thực tế, ông qua đời ở Las Vegas vào ngày 8 tháng 5, chỉ sáu ngày sau khi được cấp cứu bằng remdesivir, ở tuổi 75. Nhưng người đàn ông gốc Đức này có sức khỏe kém đến mức có vẻ thật vô lý nếu bỏ qua các yếu tố không liên quan đến bệnh. virus là nguyên nhân dẫn đến cái chết đau buồn của anh ấy.

Vào tháng 12 năm 2016, Horn được chẩn đoán mắc bệnh ung thư da giai đoạn cuối, “hóa trị và xạ trị được cho là có tác dụng, nhưng chúng cũng làm anh ấy yếu đi,” như  Bunte bóng loáng của Đức đã đưa tin trên Trang web của mình. “Anh ấy phải dùng thuốc mạnh mỗi ngày.” một người bạn cho biết: “Trước bữa tối, Roy ném hết thuốc vào như Smarties. Anh ấy không chỉ chiến đấu chống lại căn bệnh ung thư mà còn chống lại nỗi đau mà anh ấy đã trải qua kể từ vụ hổ tấn công gần 17 năm trước.”

Và sau đó Horn uống remdesivir . Thuốc này được chứng minh là có tác dụng ức chế sự sinh sản tế bào trong cơ thể và nó có thể gây ra rối loạn chức năng đa cơ quan, sốc nhiễm trùng (ngộ độc máu gây tử vong) hoặc suy thận cấp tính – hơn nữa có thể gây tử vong cho người già bị bệnh nặng. Điều này biện minh cho kết luận rằng Horn vốn đã mắc bệnh nan y và được điều trị rất nhiều thuốc đã chết một cái chết sớm bi thảm và đáng buồn không phải vì sử dụng remdesivir .

Để kết luận, hãy xem xét những lời của Sir Frank Macfarlane Burnet, người Úc đoạt giải Nobel về y học, đã nói cách đây 50 năm. Nó có vẻ phù hợp hơn bao giờ hết:

“Thách thức thực sự của thời đại ngày nay là tìm ra phương pháp chữa trị những căn bệnh này của nền văn minh. Nhưng dường như không có gì từ phòng thí nghiệm có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh này; sự đóng góp của nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trên thực tế đã kết thúc. Đối với một người đang trên đà phát triển sự nghiệp với tư cách là nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về bệnh truyền nhiễm và miễn dịch học, đây không phải là những lời an ủi.”

– – – – – – –

Torsten Engelbrecht  là một nhà báo điều tra đến từ Hamburg, Đức. Vào năm 2020, phiên bản cập nhật của cuốn sách  “Virus Mania” của ông đã được xuất bản (đồng tác giả bởi Claus Köhnlein, MD). Năm 2009, anh đã giành được  Giải thưởng Truyền thông Thay thế của Đức . Ông là nhân viên của Financial Times Deutschland và cũng đã viết bài cho OffGuardian  , The  Ecoologist ,  Rubikon ,  Süddeutsche Zeitung , và nhiều tờ khác. Xem  www.torstenengelbrecht.com .

Claus Köhnlein, MD , là chuyên gia y tế về các bệnh nội khoa. Ông đã hoàn thành chương trình nội trú tại Khoa Ung thư của Đại học Kiel, Đức. Từ năm 1993, ông đã làm việc tại cơ sở y tế của riêng mình, điều trị cho những bệnh nhân nghi ngờ về thuốc kháng vi-rút. Cùng với Torsten Engelbrecht, ông đã viết cuốn sách “Virus Mania”  (cập nhật năm 2020).

THÔNG TIN QUAN TRỌNG

Tôi không phải là bác sĩ y khoa, luật sư hay cố vấn tài chính. Tôi không đưa ra lời khuyên về y tế, pháp lý hoặc tài chính trên Lawfulrebel.com. Tuy nhiên, tôi nghiên cứu sâu rộng các vấn đề và theo dõi bằng chứng để tìm ra sự thật. Tôi nói theo kinh nghiệm của mình khi đặt câu hỏi về nguyên nhân gốc rễ và khám phá ra những sự thật đáng ngạc nhiên. Tôi viết và chia sẻ những gì tôi chọn làm do tôi tự đặt câu hỏi về các giả định và kết luận trong câu chuyện chính thống.

Tôi mong muốn mang lại giá trị và sự thật cho cộng đồng tư duy của bạn. Hãy ủng hộ tôi bằng một khoản quyên góp.

 

Nigel Howitt

 

 

Virus học y tế của Fenner và White. 2017 : 3–14.

Xuất bản trực tuyến 2016 Ngày 11 tháng 11. doi:  10.1016/B978-0-12-375156-0.00001-1

PMCID: PMC7150216

Lịch sử và tác động của virus học

Christopher J. Burrell

Trường Khoa học Phân tử và Y sinh, Đại học Adelaide, Adelaide, Nam Úc, Úc

Colin R. Howard

Đại học Y và Nha khoa, Đại học Birmingham, Vương quốc Anh

Frederick A. Murphy

Chi nhánh Y khoa Đại học Texas, Galveston, Texas, Hoa Kỳ

Thông tin bản quyền và giấy phép Tuyên bố từ chối trách nhiệm của PMC

Đi đến:

trừu tượng

Nền tảng của khoa học virus học y tế gắn liền với các ngành khoa học đời sống khác, đặc biệt là vi sinh học và các bệnh truyền nhiễm. Virus y học có lịch sử tương đối ngắn, chỉ kéo dài hơn một thế kỷ, nhưng nó chứa đựng nhiều khám phá hấp dẫn, những câu chuyện về lòng dũng cảm cá nhân to lớn và vô số ứng dụng thực tế, nhiều ứng dụng trong số đó đã mang lại lợi ích cực kỳ tích cực cho nhân loại. Nguồn gốc của nó liên quan đến việc thay thế những niềm tin và lý thuyết hàng thế kỷ bằng những khám phá có được từ quá trình điều tra khoa học nghiêm ngặt. Các chiến lược phòng ngừa và kiểm soát có mục tiêu chỉ có thể được phát triển và thực hiện khi khái niệm về tính đặc hiệu của nguyên nhân gây bệnh đã được chấp nhận, cụ thể là các bệnh truyền nhiễm không phải do một số chướng khí thông thường gây ra.(một chất độc bí ẩn), mà là bởi các tác nhân cụ thể. Theo nghĩa rộng hơn, khoa học vi sinh vật đã đóng một vai trò then chốt trong sự phát triển tư tưởng y học, đặc biệt trong việc áp dụng tính chặt chẽ của khoa học vào việc tìm hiểu các quá trình bệnh lý. Những tiến bộ trong hiểu biết về các tác nhân truyền nhiễm đã dẫn đến những cải thiện về sức khỏe và hạnh phúc của con người, được cho là đã vượt quá sự đóng góp của bất kỳ ngành khoa học nào khác. Thật vậy, nhiều công nhân trong lĩnh vực này đã được trao giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học để ghi nhận những thành tựu của họ.

 

Từ khóa: Virus học, lịch sử, virosphere, bản chất virus, vi sinh vật

Bệnh truyền nhiễm là một trong số ít những cuộc phiêu lưu thực sự còn sót lại trên thế giới. Những con rồng đều đã chết và ngọn thương trở nên rỉ sét ở góc ống khói…. Đề xuất thể thao duy nhất không bị ảnh hưởng bởi quá trình thuần hóa không ngừng nghỉ của một loài người từng sống tự do là cuộc chiến chống lại những sinh vật nhỏ bé hung dữ đó, ẩn nấp trong những góc tối và rình rập chúng ta trong cơ thể chuột cống, chuột nhắt và đủ loại. của vật nuôi; chúng bay và bò cùng côn trùng, rình rập chúng ta trong thức ăn, đồ uống và thậm chí cả tình yêu của chúng ta.

 

Nhà vi trùng học vĩ đại Hans Zinsser đã viết như vậy trong cuốn sách Chuột, Chấy và Lịch sử , viết năm 1935, khi ông suy ngẫm về cuộc đời mình trong nghiên cứu bệnh truyền nhiễm. Những suy nghĩ của Zinsser đã kích thích nhiều thế hệ sinh viên và giới chuyên môn kể từ đó. Các bệnh truyền nhiễm ngày nay đặt ra những thách thức khác nhau nhưng cũng đòi hỏi khắt khe như những thách thức mà Zinsser phải đối mặt hơn 80 năm trước.

 

Cuốn sách này trình bày chủ đề về virus học y tế từ góc độ nền tảng truyền thống của nó là khoa học đời sống và ứng dụng của nó vào thực hành lâm sàng và y tế công cộng. Đó là quan điểm được thiết lập bởi Frank Fenner và David White, những người đã nghĩ ra cơ sở lý luận cho cuốn sách này vào năm 1970 và duy trì nó qua bốn lần xuất bản trước đó. Đó là quan điểm mà nhiều người khác đã sử dụng để dạy và học về virus học y tế.

 

Nền tảng của khoa học virus học y tế gắn liền với các ngành khoa học đời sống khác, đặc biệt là vi sinh học và các bệnh truyền nhiễm. Virus y học có lịch sử tương đối ngắn, chỉ kéo dài hơn một thế kỷ, nhưng nó chứa đựng nhiều khám phá hấp dẫn, những câu chuyện về lòng dũng cảm cá nhân to lớn và vô số ứng dụng thực tế, nhiều ứng dụng trong số đó đã mang lại lợi ích cực kỳ tích cực cho nhân loại. Nguồn gốc của nó liên quan đến việc thay thế những niềm tin và lý thuyết hàng thế kỷ bằng những khám phá có được từ quá trình điều tra khoa học nghiêm ngặt. Các chiến lược phòng ngừa và kiểm soát có mục tiêu chỉ có thể được phát triển và thực hiện khi khái niệm về tính đặc hiệu của nguyên nhân gây bệnh đã được chấp nhận, cụ thể là các bệnh truyền nhiễm không phải do một số chướng khí thông thường gây ra.(một chất độc bí ẩn), mà là bởi các tác nhân cụ thể. Theo nghĩa rộng hơn, khoa học vi sinh vật đã đóng một vai trò then chốt trong sự phát triển tư tưởng y học nói chung, đặc biệt trong việc áp dụng tính chặt chẽ của khoa học vào việc tìm hiểu các quá trình bệnh lý. Những tiến bộ trong việc tìm hiểu các tác nhân truyền nhiễm đã dẫn đến những cải thiện về sức khỏe và hạnh phúc của con người, được cho là đã vượt quá sự đóng góp của bất kỳ ngành khoa học nào khác. Thật vậy, không dưới 35 công nhân trong lĩnh vực này và các lĩnh vực liên quan chặt chẽ đã được trao giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học để ghi nhận những thành tựu của họ.

 

Những phát hiện về bệnh truyền nhiễm đã có tác động sâu sắc đến tuổi thọ và sức khỏe trên toàn thế giới. Ví dụ, các dịch bệnh đậu mùa, sốt vàng da và bệnh bại liệt, phổ biến cho đến tận thế kỷ 20, hầu như đã bị loại bỏ nhờ áp dụng các chiến lược phòng ngừa và kiểm soát khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, những căn bệnh không được nhận biết đã xuất hiện trong nửa thế kỷ qua với tốc độ ít nhất một căn bệnh mỗi năm. Nhiều loại virus được đề cập trong ấn bản này vẫn chưa được biết đến khi ấn bản đầu tiên được xuất bản cách đây hơn 45 năm. Dịch tễ học của các loại virus khác đã thay đổi hoàn toàn khi con người tiếp tục thay đổi môi trường theo nhiều cách. Để đáp ứng những thách thức do các bệnh mới nổi đặt ra đòi hỏi nhà virus học y tế phải có được kiến ​​thức chuyên môn ngày càng cao và khả năng tiếp cận các công nghệ phức tạp hơn bao giờ hết. Ngày nay các bệnh như HIV/AIDS, viêm gan C, cúm và bệnh tiêu chảy là những mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng. Ngày mai sẽ là những căn bệnh khác, bản chất và phương pháp kiểm soát phần lớn là không thể đoán trước được. Một lưu ý tích cực là tất cả các bệnh do virus mới xuất hiện trong những năm gần đây đều được phát hiện là do các thành viên của các họ virus đã được công nhận trước đó gây ra. Vì vậy, sự hiểu biết thấu đáo về các thành viên đại diện của mỗi họ có thể tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin cho sự phát triển nhanh chóng kiến ​​thức về bất kỳ mầm bệnh mới nào. Một lưu ý tích cực là tất cả các bệnh do virus mới xuất hiện trong những năm gần đây đều được phát hiện là do các thành viên của các họ virus đã được công nhận trước đó gây ra. Vì vậy, sự hiểu biết thấu đáo về các thành viên đại diện của mỗi họ có thể tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin cho sự phát triển nhanh chóng kiến ​​thức về bất kỳ mầm bệnh mới nào. Một lưu ý tích cực là tất cả các bệnh do virus mới xuất hiện trong những năm gần đây đều được phát hiện là do các thành viên của các họ virus đã được công nhận trước đó gây ra. Vì vậy, sự hiểu biết thấu đáo về các thành viên đại diện của mỗi họ có thể tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin cho sự phát triển nhanh chóng kiến ​​thức về bất kỳ mầm bệnh mới nào.

 

 

Tại sao nghiên cứu virus học?

Vì nhiều bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn đã không thể điều trị bằng thuốc kháng sinh, nên nhiễm virus hiện gây ra mối đe dọa lớn hơn nhiều đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu so với trường hợp nửa thế kỷ trước. Các bệnh do vi rút gây ra thiệt hại đặc biệt nặng nề ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh ở các quốc gia kém phát triển về kinh tế, nơi nguồn lực chăm sóc sức khỏe còn hạn chế. Trớ trêu thay, lại có sự quan tâm trở lại về các virus nhắm vào vi khuẩn (thực khuẩn) như một chiến lược thay thế để kiểm soát một số bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn ngày càng kháng thuốc (ví dụ, bệnh tả).

 

Mặc dù cuốn sách này tập trung vào các bệnh nhiễm virus có ý nghĩa y tế, nhưng người đọc cần lưu ý rằng virus là mối đe dọa lớn đối với các loài vật nuôi và thực vật, và do đó có tầm quan trọng lớn trong việc cung cấp thực phẩm và dinh dưỡng cho con người. Sự thích ứng của con người với các bệnh của vật nuôi và cây trồng đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của tất cả các nền văn minh.

 

Virus học rộng hơn nhiều so với việc liên kết một căn bệnh cụ thể với một mầm bệnh cụ thể: có hàng trăm loại virus mới được phát hiện mà dường như không liên quan đến bất kỳ tình trạng bệnh lý nào đã biết của động vật hoặc con người. Nhiều trong số này trong tương lai có thể liên quan đến bệnh tật ở người và do đó người đọc cần nhận thức được phạm vi rộng hơn của bối cảnh virus học, nếu không muốn nói là chi tiết thì ít nhất cũng đến mức “mong đợi những điều bất ngờ”. Ngược lại, mục tiêu trêu ngươi vẫn là làm rõ vai trò của virus, nếu có, trong các căn bệnh nổi tiếng có nguyên nhân không rõ ràng, chẳng hạn như bệnh đa xơ cứng.

 

Phần lớn các mối đe dọa vi-rút mới xuất hiện hàng năm đều có nguồn gốc từ vật chủ là động vật (bệnh lây từ động vật sang người) hoặc là kết quả của việc mở rộng phạm vi vật chủ (nghĩa là “nhảy qua loài vật chủ”) hoặc những thay đổi khác về dịch tễ học, sinh thái và/hoặc khả năng gây bệnh của tác nhân gây bệnh. Kể từ lần xuất bản cuối cùng của cuốn sách này, sự xuất hiện của virus đã trở thành trọng tâm chính của nghiên cứu virus học.

 

Việc phát hiện ra một mầm bệnh mới ở người thường kích thích việc phát hiện ra các tác nhân có liên quan nhưng cho đến nay vẫn chưa được xác định có thể hoặc không thể gây ra mối đe dọa đối với sức khỏe con người tại một thời điểm nào đó trong tương lai. Một ví dụ điển hình là sự xuất hiện của virus SARS, một loại virus Corona và sự bùng nổ kiến ​​thức sau đó của chúng ta về virus Corona ở động vật. Điều này đã giúp chúng tôi nhanh chóng nhận biết một loại vi-rút gây bệnh đường hô hấp khác ở người—vi-rút MERS (vi-rút gây Hội chứng Hô hấp Trung Đông).

 

 

Sơ lược về lịch sử virus học

Lịch sử virus học có thể được chia thành nhiều thời đại: bao gồm (1) sự phát hiện ra virus là những thực thể khác biệt với các mầm bệnh gây bệnh khác, (2) sự liên quan của nhiều bệnh chính ở người với virus gây bệnh, (3) phát triển các phương pháp phân lập và xác định đặc tính của vi rút, (4) xác định các đặc tính hóa học của vi rút và (5) thiết kế và ứng dụng vắc xin và phương pháp điều trị. Bản tóm tắt các cột mốc quan trọng trong sự phát triển của virus học được trình bày trongBảng 1.1 .

 

Bảng 1.1

Một số cột mốc quan trọng trong lịch sử virus học

 

Ngày  (Những) người khám phá (Các) khám phá

1796  E. Jenner       Ứng dụng virus đậu bò để tiêm phòng bệnh đậu mùa

1885  L. Pasteur      Phát triển vắc-xin bệnh dại

1892  D. Ivanovsky, M. Beijerinck          Siêu lọc virus khảm thuốc lá

1898  F. Loeffler, P. Frosch           Siêu lọc virus lở mồm long móng - bằng chứng rõ ràng về nguyên nhân gây bệnh của virus - phát hiện ra loại virus đầu tiên

1898  G. Sanarelli   Phát hiện virus myxoma

1900  W. Reed, J. Carroll, A. Agramonte, J. Lazear, C. Finlay          Phát hiện virus sốt vàng da và sự lây truyền của nó qua muỗi

1903  M. Remlinger, Riffat-Bay, A. di Vestea   Phát hiện virus dại

1907  P. Ashburn, C. Craig            Phát hiện virus sốt xuất huyết

1909  K. Landsteiner, E. Popper Phát hiện virus bại liệt

1911  P. Rous a        Phát hiện virus khối u đầu tiên: Virus Rous sarcoma

1911  J. Goldberger, J. Anderson           Phát hiện virus sởi

1915  F. Twort, F. d'Herelle          Phát hiện virus vi khuẩn (bacteriophage)

1918              Bắt đầu đại dịch cúm toàn cầu

1919  A. Lowenstein          Phát hiện virus herpes simplex

1930  K. Meyer, C. Haring, B. Howitt    Phát hiện virus viêm não ngựa phương Tây

1931  M. Theiler a Suy giảm virus sốt vàng da - phát triển vắc xin

1933  C. Andrews, P. Laidlaw, W. Smith           Phân lập virus cúm người ở chồn sương

1933  R. Muckenfuss, C. Armstrong, H. McCordock, L. Webster, G. Fite Phát hiện virus viêm não St. Louis

1934  C. Johnson, E. Goodpasture        Phát hiện virus quai bị

1934  M. Hayashi, S. Kasahara, R. Kawamura, T. Taniguchi Phát hiện virus viêm não Nhật Bản

1935  W. Stanley một        Tinh chế/kết tinh virus khảm thuốc lá

1936  C. Armstrong, T. Rivers, E. Traub Phát hiện virus viêm màng não lympho bào

1937  L. Zilber, M. Chumkov, N. Seitlenok, E. Levkovich     Phát hiện virus viêm não do ve truyền (virus viêm não xuân hè Nga)

1938  B. von Borries, H. Ruska, E. Ruska          Ảnh hiển vi điện tử đầu tiên của virus (ectromelia, virus vaccinia)

1939  E. Ellis, M. Delbrück           Development of one-step growth curve—bacteriophage

1940  K. Smithburn, T. Hughes, A. Burke, J. Paul       Discovery of West Nile virus

1941  G. Hirst          Discovery of agglutination of red blood cells by influenza virus

1945  M. Chumakov, G. Courtois, colleagues Discovery of Crimean-Congo hemorrhagic fever virus

1948  G. Dalldorf, G. Sickles        Discovery of Coxsackieviruses

1949  J. Endersa, T. Wellera, F. Robbinsa         Development of cell culture methodology for polio, measles, and other vaccines

1950  L. Florio, M. Miller, E. Mugrage  Discovery of Colorado tick fever virus

1952  R. Dulbecco, M. Vogt         Development of plaque assay for animal viruses—polioviruses, Western equine encephalitis virus

1953  W. Rowe        Discovery of human adenoviruses

1954  J. Salk, J. Youngner, T. Francis      Development of inactivated polio vaccine

1958  J. Lederberga           Discovery of genetic recombination and the organization of the genetic material of bacteria

1959  A. Sabin, H. Cox, H. Koprowski   Development of attenuated live-virus polio vaccine

1962  A. Lwoff, R. Horne, P. Tournier    Classification of the viruses based on virion characteristics

1964  M. Epstein, B. Achong, Y. Barr    Discovery of Epstein–Barr virus and its association with Burkitt’s lymphoma

1965  D. Tyrrell, M. Bynoe, J. Almeida  Discovery of human coronaviruses (B814 and 229E)

1965  F. Jacoba, A. Lwoffa, J. Monoda  Discoveries of genetic control of enzymes and virus synthesis: the operon

1967  B. Blumberga, H. Alter, A. Prince            Discovery of Australia antigen and its link to hepatitis B

1969  M. Delbrücka, A. Hersheya, S. Luriaa    Discoveries related to the replication mechanism and the genetic structure of viruses

1970  H. Temina, D. Baltimorea, R. Dulbeccoa          Discoveries related to the interaction between tumor viruses and the genetic material of the cell—reverse transcriptase

1972  A. Kapikian, colleagues     Discovery of Norwalk virus (norovirus)

1973  R. Bishop, G. Davidson, I. Holmes, T. Flewett, A. Kapikian  Discovery of human rotaviruses

1973  S. Feinstone, A. Kapikian, R. Purcell      Discovery of hepatitis A virus

1975  Y. Cossart, A. Field, A. Cant, D. Widdows         Discovery of parvovirus B-19 and its association with aplastic crisis in hemolytic anemia

1975  P. Sharpa, L. Chow, R. Robertsa, T. Broker       Discovery of RNA splicing and split genes (adenovirus)

1976  D. C. Gajduseka       Discovery of transmissible spongiform encephalopathies

1976  K. Johnson, P. Webb, J. Lange, F. Murphy, S. Pattyn, W. Jacob, G. Van der Groen, P. Piot, E. Bowen, G Platt, G. Lloyd, A. Baskerville, D. Simpson        Discovery of Ebola virus

1976  J. Bishopa, H. Varmusa     Discovery of the cellular origin of retroviral oncogenes

1977  D. Henderson, F. Fenner, I. Arita, many others           Global eradication of smallpox

1978  D. Nathansa, W. Arbera, H. Smitha        Discovery of restriction enzymes and their application to problems of molecular genetics

1978  S. Harrison, M. Rossman, N. Olson, R. Kuhn, T. Baker, J. Hogle, M. Chow, R. Rueckert, J. Johnson        Atomic structure of viruses (tomato bushy stunt virus, polioviruses, rhinoviruses)

1980  P. Berga         The development of recombinant-DNA technology

1980  R. Gallo, B. Poiesz, M. Yoshida, I. Miyoshi, Y. Hinuma          Discovery of human T lymphotropic viruses 1 and 2

1981  V. Racaniello, D. Baltimore           Development of an infectious recombinant clone of a virus (poliovirus)

1982  S. Prusinera  Concept of the prion and their etiologic role in spongiform encephalopathies

1982  A. Kluga         Crystallographic electron microscopy and structural elucidation of biologically important nucleic acid–protein complexes

1983  F. Barré-Sinoussia, L. Montagniera, J. Chermann      Discovery of human immunodeficiency virus 1 (HIV1)

1983  M. Balayan   Discovery of hepatitis E virus and its transmission

1985  F. Barin, F. Clavel, M. Essex, P. Kanki, F. Brun-Vézinet           Discovery of human immunodeficiency virus 2 (HIV2)

1988  G. Hitchingsa, G. Eliona    Discoveries of important principles for drug treatment—acyclovir

1989  M. Houghton, Q.-L. Choo, G. Kuo, D. Bradley, H. Alter         Discovery of hepatitis C virus

1993  S. Nichol, C. Peters, P. Rollin, T. Ksiazek Discovery of Sin Nombre virus and its association with hantavirus cardiopulmonary syndrome

1994  Y. Chang, P. Moore Discovery of human herpesvirus 8—Kaposi sarcoma herpesvirus

1995  K. Murray, P. Hooper, A. Hyatt    Discovery of Hendra virus and its reservoir host fruit bats

1996  P. Dohertya, R. Zinkernagela       Discovery of the genetic specificity of the cell-mediated immune response

1996  R. Will, J. Ironside, J. Collinge, colleagues        Discovery that bovine spongiform encephalopathy prion is the cause of variant Creutzfeldt–Jakob disease in humans

1999  K. Chua, S. Lam, W. Bellini, T. Ksiazek, B. Eaton, colleagues            Discovery of Nipah virus

1999  D. Asnis, M. Layton, W.I. Lipkin, R. Lanciotti   Extension of West Nile virus range to North America

2001  B. van den Hoogen, A. Osterhaus, colleagues            Discovery of human metapneumovirus

2003  C. Urbani, J. Peiris, S. Lai, L. Poon, G. Drosten, K. Stöhr, A. Osterhaus, T. Ksiazek, D. Erdman, C. Goldsmith, S. Zaki, J. DeRisi, others         Discovery of SARS coronavirus

2003  B. La Scola, D. Raoult, others       Discovery of mimivirus, the largest virus known at the time

2005  J. Taubenberger, P. Palese, T. Tumpey, A. Garcia-Sastre, others     1918 influenza virus genome sequenced and the virus reconstructed

2005              Beginning of global pandemic of chikungunya

2005  E. Leroy, J. Towner, R. Swanepoel, others        Discovery that the reservoir hosts of Ebola/Marburg viruses are bats

2007  T. Allander, D. Wang, Y. Chang, others  Discovery of human polyomaviruses KI, WU, MC

2008  H. zur Hausena        Discovery that human papilloma viruses cause cervical cancer

2008  B. La Scola, D. Raoult, others       Discovery of virophage, Sputnik

2010  W. Plowright and the FAO Global Rinderpest Eradication Programme   Global eradication of rinderpest

2011  B. Hoffmann, M. Beer, T. Mettenleiter, colleagues    Discovery of Schmallenberg virus

2012  A.M. Zaki, R. Fouchier, W.I. Lipkin          Discovery of MERS coronavirus

2014              Beginning of an Ebola hemorrhagic fever epidemic in West Africa, the largest ever

2015              Bắt đầu một đại dịch toàn cầu về bệnh do virus Zika - phát hiện ra bệnh đầu nhỏ do hậu quả của nhiễm trùng tử cung

Mở trong một cửa sổ riêng

a Các nhà khoa học đã được trao giải Nobel cho công trình của họ—được trích dẫn vào ngày phát hiện ra chứ không phải vào ngày được trao giải.

Virus học có nền tảng từ những khám phá ban đầu về vi khuẩn và các bệnh liên quan. Cho đến thế kỷ 19, quan điểm phổ biến cho rằng bệnh tật của con người và động vật là kết quả của chướng khí và các ảnh hưởng môi trường khác. Điều này bất chấp luận điểm của Girolamo Fracastoro, người đã đề xuất ngay từ năm 1546 rằng các dịch bệnh lây lan do các hạt nhỏ được mang đi trên một khoảng cách dài. Anton van Leeuwenhoek lần đầu tiên nhìn thấy vi khuẩn qua kính hiển vi vào năm 1676 và Lazarro Spallanzani lần đầu tiên phát triển vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy vào năm 1775. Đáng chú ý, Edward Jenner đã phát triển vắc-xin phòng bệnh đậu mùa vào năm 1796 trong bối cảnh quan điểm phổ biến cho rằng những căn bệnh này là do các yếu tố môi trường chứ không phải do vi khuẩn cụ thể gây ra. đại lý.

 

Việc xác định vi sinh vật học như một ngành khoa học có được là nhờ công lao của Louis Pasteur, người vào năm 1857 đã khám phá ra đặc điểm của quá trình lên men vi sinh vật, người sau đó vào năm 1865 đã tiếp tục nghiên cứu chi tiết hơn về bản chất các bệnh của tằm. Nhưng chính công trình nghiên cứu về bệnh dại của ông đã báo hiệu sự khởi đầu của kỷ nguyên phát hiện ra virus. Năm 1885, Pasteur chứng kiến ​​vắc-xin bệnh dại đầu tiên của ông được tiêm cho cậu bé Joseph Meister bị chó dại cắn nặng, từ đó mở ra chiến lược phát triển vắc-xin thông qua quá trình làm suy giảm vi-rút (Hình 1.1 ).

 

Tệp bên ngoài chứa ảnh, hình minh họa, v.v. Tên đối tượng là f01-01-9780123751560.jpg

Hình 1.1

Năm 1881 và 1882, Louis Pasteur, Charles Chamberland, Émile Roux và Louis Thuillier bắt đầu nghiên cứu phát triển vắc-xin bệnh dại. Họ đã sửa đổi kỹ thuật của Pierre-Victor Galtier bằng cách tiêm mô thần kinh từ một con chó dại vào một loạt con chó dài thông qua kỹ thuật khoan dưới màng cứng. Sau nhiều lần truyền, họ thu được một loại virus có độc lực tối đa và thời gian ủ bệnh cố định khoảng 10 ngày. Mức độ suy yếu của vi rút phục hồi từ mỗi lần truyền được đo và sau đó vi rút được làm yếu đi thêm ở thỏ. Quy trình làm suy yếu cuối cùng này bao gồm việc treo tủy sống của một con thỏ dại trong bình, trong môi trường khô ấm, để đạt được sự hút ẩm chậm. Họ đã thành công trong việc tạo ra “các loại virus giảm độc lực với nhiều sức mạnh khác nhau”, loại virus yếu nhất có thể được sử dụng để điều chế liều vắc xin đầu tiên. Việc tiêm chủng cho chó bằng một chuỗi các dây cột sống có độc lực ngày càng tăng khiến người nhận có khả năng chống lại việc tiêm chủng vi rút có độc lực hoàn toàn. Trong vòng một năm, Pasteur và các đồng nghiệp đã báo cáo kết quả của phương pháp điều trị này trong 350 trường hợp phơi nhiễm bệnh dại - chỉ có một người mắc bệnh dại và đây là đứa trẻ được điều trị 6 ngày sau khi phơi nhiễm. Trong những thập kỷ tiếp theo, hàng ngàn người có khả năng phơi nhiễm bệnh dại đã được chủng ngừa bằng các loại vắc xin ngày càng cải tiến về hệ thần kinh động vật (não và tủy sống), tại Viện Pasteur ở Paris, được thành lập năm 1888 và ở các địa điểm khác trên khắp thế giới. Pasteur và các đồng nghiệp đã báo cáo kết quả của phương pháp điều trị này trong 350 trường hợp phơi nhiễm bệnh dại - chỉ có một người mắc bệnh dại và đây là đứa trẻ được điều trị 6 ngày sau khi phơi nhiễm. Trong những thập kỷ tiếp theo, hàng ngàn người có khả năng phơi nhiễm bệnh dại đã được chủng ngừa bằng các loại vắc xin ngày càng cải tiến về hệ thần kinh động vật (não và tủy sống), tại Viện Pasteur ở Paris, được thành lập năm 1888 và ở các địa điểm khác trên khắp thế giới. Pasteur và các đồng nghiệp đã báo cáo kết quả của phương pháp điều trị này trong 350 trường hợp phơi nhiễm bệnh dại - chỉ có một người mắc bệnh dại và đây là đứa trẻ được điều trị 6 ngày sau khi phơi nhiễm. Trong những thập kỷ tiếp theo, hàng ngàn người có khả năng phơi nhiễm bệnh dại đã được chủng ngừa bằng các loại vắc xin ngày càng cải tiến về hệ thần kinh động vật (não và tủy sống), tại Viện Pasteur ở Paris, được thành lập năm 1888 và ở các địa điểm khác trên khắp thế giới.

 

Louis Pasteur, 1822–95. Tranh của Albert Edelfeldt, 1885. Từ Viện Pasteur, được sử dụng với sự cho phép.

Công trình tiên phong đầu thế kỷ 19 liên quan đến bệnh tật với các vi khuẩn cụ thể đã được hỗ trợ rất nhiều nhờ sự phát triển trước đó của siêu lọc bằng sứ không tráng men của Charles Chamberland, người làm việc trong phòng thí nghiệm của Pasteur. Những bộ lọc này ban đầu được sử dụng để khử trùng nước và các chất lỏng khác bằng cách ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn. Dimitri Ivanovsky (1892) và Martinus Beijerinck (1898) đã chỉ ra rằng tác nhân gây bệnh khảm ở cây thuốc lá (nay được gọi là virus khảm thuốc lá [TMV]) truyền qua các vi khuẩn siêu lọc giữ lại. Beijerinck nhận ra rằng anh ta đang xử lý một thứ không phải là vi khuẩn nhưng đã nhầm tưởng rằng thực thể đi qua bộ siêu lọc là một chất lỏng truyền nhiễm chứ không phải một hạt - anh ta gọi nó là “contagium vivum liquidum”. Friedrich Loeffler và Paul Frosch là những người đầu tiên kết luận chính xác rằng tác nhân lây nhiễm siêu lọc thực sự là một hạt siêu nhỏ. Nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh lở mồm long móng ở gia súc, Loeffler và Frosch phát hiện ra rằng tác nhân gây bệnh đi qua bộ siêu lọc Chamberland chứ không phải qua bộ siêu lọc Kitasato mịn hơn. Do đó, những nhà virus học đầu tiên này đã nhìn thấy siêu lọc theo một cách mới - họ tập trung chú ý vào những gì đi qua siêu lọc hơn là những gì được giữ lại, và từ đó thiết lập một phương pháp thử nghiệm được áp dụng rộng rãi vào đầu thế kỷ 20. Tiếp nối nhanh chóng, các bệnh khác được chứng minh là do các tác nhân siêu lọc gây ra: vào năm 1900, virus đầu tiên ở người, virus sốt vàng da và chu trình lây truyền qua muỗi của nó đã được phát hiện bởi Walter Reed,Hình 1.2 ).

 

Tệp bên ngoài chứa ảnh, hình minh họa, v.v. Tên đối tượng là f01-02-9780123751560.jpg

Hình 1.2

Năm 1900, Walter Reed và các đồng nghiệp đã phát hiện ra virus sốt vàng da, loại virus đầu tiên ở người và chu trình lây truyền của nó. Đây là bức tranh ngụ ngôn nổi tiếng mang tên Kẻ chinh phục cơn sốt vàng da.của Dean Cornwell. Nó mô tả Walter Reed (mặc đồng phục trắng) và Carlos Finlay (với mái tóc trắng) đang nhìn Jesse Lazear, người chết vì bệnh sốt vàng da một tháng sau đó, bôi một con muỗi bị nhiễm bệnh vào cánh tay của James Carroll. Bức tranh bao gồm Aristides Agramonte (đằng sau Lazear), Leonard Wood (đội mũ bảo hiểm màu nâu), Jefferson Kean (đội mũ bảo hiểm màu trắng) và một số tình nguyện viên sau đó cũng bị nhiễm bệnh theo cách tương tự. Carroll bị nhiễm bệnh do thí nghiệm này - anh ấy sống sót và tiếp tục có một sự nghiệp nổi bật là nhà vi trùng học, nhưng mắc bệnh mãn tính dẫn đến tử vong sớm, được cho là hậu quả của việc anh ấy nhiễm bệnh sốt vàng da.

 

Bản sao đã mua, được sử dụng với sự cho phép.

Khái niệm về tác nhân lây nhiễm siêu lọc được chấp nhận rộng rãi hơn khi Karl Landsteiner và Erwin Popper chứng minh một cách thuyết phục vào năm 1909 rằng bệnh bại liệt là do một tác nhân siêu lọc gây ra. Điều quan trọng là, ngay từ năm 1911, Peyton Rous cũng đã cho thấy các đặc tính tương tự đối với tác nhân gây bệnh sarcoma ở gà: Virus Rous sarcoma đóng vai trò thiết yếu trong việc xác định cơ chế cơ bản mà virus có thể kích hoạt sự khởi phát của khối u.

 

Việc nhận ra rằng sự sinh ung thư và nhiễm virus đi đôi với nhau là một cột mốc quan trọng trong những ngày đầu của virus học, mặc dù phải mất nhiều thập kỷ ý nghĩa thực sự của nó mới được đánh giá cao. Năm 1970, Howard Temin và David Baltimore đã độc lập chứng minh được rằng các virus gây ung thư có chứa enzyme sao chép ngược, từ đó giải thích cách một virus RNA có thể tạo ra các bản sao DNA của vật liệu di truyền của nó.

 

Thực khuẩn thể được phát hiện độc lập bởi Frederick Twort và Felix d'Herelle (1915), những người đã điều tra sự bùng phát bệnh kiết lỵ trong quân đội trong Thế chiến thứ nhất. Trước đây, Twort đã thấy trước rằng các mảng bám trong suốt trong môi trường nuôi cấy Micrococcus trên đĩa có thể do “vi rút siêu lọc” gây ra.

 

Trong những thập kỷ tiếp theo của thế kỷ 20, nhiều người cho rằng virus đại diện cho các hạt protein truyền nhiễm. Đây là quan điểm được củng cố bởi mô tả của Wendell Stanley vào năm 1935 rằng các tinh thể TMV nguyên chất có thể bị hòa tan và truyền bệnh sang cây khỏe mạnh - ông cho rằng các tinh thể này là protein nguyên chất. Tuy nhiên, điều này đã bị bác bỏ khi Frederick Bawden và Norman Pirie chứng minh rằng TMV không chỉ chứa protein mà còn chứa cả axit nucleic. Tầm quan trọng của điều này đã được thể hiện qua các nghiên cứu kinh điển của Oswald Avery, Colin MacLeod, và Maclyn McCarty (1944) và sau đó là Alfred Hershey và Martha Chase (1952), những người đã chứng minh DNA có liên quan đến di truyền.

 

Năm 1933, kính hiển vi điện tử được phát minh bởi Ernst Ruska và Max Knoll và vào năm 1938 Bodo von Borries, Helmut Ruska, và Ernst Ruska đã công bố ảnh vi điện tử đầu tiên về virus ectromelia (mousepox) và virus vaccinia. Rõ ràng là có sự đa dạng lớn về kích thước và hình dạng của các loại virus khác nhau. Một tiến bộ lớn là sự phát triển của kính hiển vi điện tử tương phản âm vào năm 1959 bởi Sydney Brenner và Robert Horne. Sử dụng phương pháp này, các vết bẩn có nồng độ electron dày đặc bao quanh các hạt virus để tạo ra hình ảnh âm bản của virus với độ phân giải vượt trội; Điều quan trọng là trong những ngày đầu của virus học y tế, phương pháp này rất dễ sử dụng.Hình 1.3,Hình 1.4 mô tả phổ đa dạng các hình dạng hình thái được đại diện bởi virus động vật. Vào đầu những năm 1960, cấu trúc tinh tế của một số loại virus đã được làm sáng tỏ bởi Aaron Klug, Donald Caspar và những người khác bằng phương pháp tinh thể học tia X. Họ đã chỉ ra rằng nhiều loại virus được cấu tạo từ các tiểu đơn vị đồng nhất, tuân theo các nguyên tắc đối xứng hai mươi mặt như được hiểu đầu tiên về Khối Platonic (khối đa diện đều) của người Hy Lạp cổ đại. Do đó, thông qua việc sử dụng một số phương pháp tiếp cận khác nhau, sự đa dạng về chi tiết cấu trúc giữa các loại virus khác nhau bắt đầu xuất hiện.

 

Tệp bên ngoài chứa ảnh, hình minh họa, v.v. Tên đối tượng là f01-03-9780123751560.jpg

Hình 1.3

Kính hiển vi điện tử mặt cắt mỏng của các virus được chọn. Sự đa dạng đáng chú ý của virus được bộc lộ rõ ​​ràng bằng kính hiển vi điện tử cắt lát mỏng của các tế bào bị nhiễm bệnh và kỹ thuật này cung cấp thông tin quan trọng về hình thái học và tế bào học. (A) Họ Poxviridae , chi Orthopoxvirus , virus variola. (B) Họ Herpesviridae , chi Simplexvirus , herpesvirus ở người 1. (C) Họ Adenoviridae , chi Mastadenovirus , adenovirus ở người 5. (D) Họ Togaviridae , chi Alphavirus , virus viêm não ngựa phương Đông. (E) Họ Bunyaviridae , chi Hantavirus, Virus Sin Nombre. Những hình ảnh này thể hiện độ phóng đại khác nhau; chi tiết về hình thái học của các loại virus khác nhau được trình bày trong các chương của Phần II của cuốn sách này.

 

Tệp bên ngoài chứa ảnh, hình minh họa, v.v. Tên đối tượng là f01-04-9780123751560.jpg

Hình 1.4

Kính hiển vi điện tử tương phản âm tính của các virus được chọn. Sự đa dạng đáng chú ý của virus được tiết lộ bằng tất cả các loại phương pháp kính hiển vi điện tử, nhưng không có phương pháp nào tốt hơn phương pháp nhuộm âm tính. (A) Họ Poxviridae , chi Orthopoxvirus , virus vaccinia. (B) Họ Papovaviridae , chi Papillomavirus , papillomavirus ở người. (C) Họ Filoviridae , virus Ebola. (D) Họ Reoviridae , chi Rotavirus , rotavirus ở người. (E) Họ Herpesviridae , chi Simplexvirus , herpesvirus 1 ở người (chỉ vỏ nang, không hiển thị vỏ bọc). (F) Họ Rhabdoviridae , chi Lyssavirus, vi rút bệnh dại. (G) Họ Caliciviridae , chi Norovirus , norovirus ở người. (H) Họ Bunyaviridae , chi Phlebovirus , virus sốt Rift Valley. (I) Họ Orthomyxoviridae , giống Influenzavirus A , virus cúm A/Hong Kong/1/68 (H3N2). Những hình ảnh này thể hiện độ phóng đại khác nhau; kích thước của các loại virus khác nhau được đưa ra trong Chương 2: Phân loại virus và mối quan hệ phát sinh loài và trong các chương của Phần II của cuốn sách này.

 

Nỗ lực ngăn ngừa bệnh do vi rút bằng vắc xin đã song hành với sự phát triển của vi rút học, bắt đầu từ những ngày đầu tiên phong của Edward Jenner và Louis Pasteur. Những phát triển đáng chú ý bao gồm vắc-xin sốt vàng da giảm độc lực do Max Theiler phát triển vào năm 1931, một loại vắc-xin vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay và đã cứu sống vô số hàng nghìn người. Jonas Salk và Albert Sabin vào năm 1954 và 1959 đã lần lượt phát triển các loại vắc-xin vi-rút không sao chép (bất hoạt) và vi-rút sống giảm độc lực chống lại vi-rút bại liệt, việc sử dụng vắc-xin này rộng rãi đến mức tình trạng nhiễm vi-rút bại liệt hầu như đã bị loại bỏ trừ một số ổ nhiễm trùng ở những nơi xa xôi trên thế giới (Hình 1.5 ). Như được mô tả trong Chương 11: Vắc-xin và tiêm chủng, nghiên cứu vắc-xin thường khai thác các khái niệm mới, ví dụ, việc sử dụng huyết tương từ những người bị nhiễm bệnh mãn tính làm nguồn protein vỏ vi-rút viêm gan B (HBV) để kích thích khả năng miễn dịch chống lại vi-rút viêm gan B ( 1976), và việc sử dụng các chế phẩm DNA trần biến đổi gen để tạo ra sự biểu hiện kháng nguyên trong mô của người nhận vắc xin.

 

Tệp bên ngoài chứa ảnh, hình minh họa, v.v. Tên đối tượng là f01-05-9780123751560.jpg

Hình 1.5

Sáng kiến ​​Xóa bỏ Bệnh bại liệt Toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế giới nhằm mục đích loại trừ bệnh bại liệt trên toàn cầu vào khoảng năm 2018. Sáng kiến ​​này được dẫn dắt bởi Tổ chức Y tế Thế giới, UNICEF, và Quỹ Rotary và Gates; nó đã giảm số trường hợp từ nhiều nghìn trường hợp mỗi năm xuống dưới 100 trường hợp (359 trường hợp năm 2014; 74 trường hợp năm 2015). Bệnh bại liệt sẽ là căn bệnh thứ ba được loại trừ trên toàn cầu, sau bệnh đậu mùa và bệnh dịch tả trâu bò. Bước quan trọng nhất trong việc loại trừ bệnh bại liệt là làm gián đoạn sự lây truyền bệnh bại liệt bằng cách tiêm chủng phổ cập cho trẻ sơ sinh bằng vắc xin uống (OPV; thường bằng cách tổ chức “ngày tiêm chủng quốc gia”), các chiến dịch tiêm chủng IPV bổ sung khi cần thiết, giám sát chuyên sâu các trường hợp liệt mềm và ở một số nơi. nơi phát hiện virus trong nước thải. Số liệu (theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái). Một tấm bia (tấm bia) của Ai Cập được cho là mô tả một nạn nhân bệnh bại liệt—Vương triều thứ 18 (1403–1365 TCN); bệnh nhân bị liệt cơ hô hấp vĩnh viễn sau khi hồi phục sau bệnh bại liệt sẽ phải sống quãng đời còn lại cần được hỗ trợ hô hấp (ngâm trong “lá phổi sắt”); bệnh nhân bị yếu chi dưới vĩnh viễn sau bệnh bại liệt; những quốc gia còn lại báo cáo các trường hợp mắc bệnh bại liệt năm 2014; tiêm vắc xin bại liệt bằng đường uống; Năm 1921, Franklin D. Roosevelt, 39 tuổi, được chẩn đoán mắc bệnh bại liệt và bị liệt vĩnh viễn từ thắt lưng trở xuống, nhưng hiếm khi được chụp ảnh trên xe lăn. Ông được bầu làm tổng thống Mỹ vào năm 1932.

 

Năm 1957, Alick Isaacs và Jean Lindemann phát hiện ra interferon, các phân tử đại diện cho phản ứng ban đầu của động vật có vú đối với nhiễm trùng. Người ta đặt hy vọng lớn vào việc sử dụng interferon trong điều trị nhiều loại bệnh nhiễm virus ở người: tuy nhiên, mặc dù đã được chứng minh là có tác dụng trong một số điều kiện nhất định, việc sử dụng interferon vẫn chưa đáp ứng được lời hứa rộng rãi trước đó được đề xuất bởi các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.

 

Các khoa học về miễn dịch học, tế bào và sinh học phân tử đã gắn liền với khoa học về virus học: những khám phá mang tính bước ngoặt được thực hiện bởi Peter Doherty và Rolf Zinkernagel, những người vào năm 1974 đã phát hiện ra cách hệ thống miễn dịch tế bào nhận biết các tế bào bị nhiễm virus; và Georges Kohler và Cesar Milstein, người vào năm 1975 đã phát triển các kháng thể đơn dòng đầu tiên.

 

Đi đến:

Thế giới virus

Chúng ta đang sống trong cái mà ngày nay nhiều người mô tả là virosphere , vì hầu hết tất cả các sinh vật đa bào và đơn bào sống đều dễ bị nhiễm virus. Lấy ví dụ về các đại dương: mỗi lít nước biển có tới 10 tỷ virus. Người ta ước tính có khoảng 5×10 30vi khuẩn trên hành tinh Trái đất, và virus ít nhất là phổ biến hơn về mặt số lượng; điều này có nghĩa là có nhiều virus trên thế giới hơn tất cả các dạng sống. Phần lớn rất có thể là vi rút vi khuẩn (vi khuẩn) có tác dụng hỗ trợ tái chế chất hữu cơ, nhưng một số có vai trò phức tạp hơn trong môi trường, chẳng hạn như xác định hành vi của côn trùng như một phần thiết yếu của vòng đời động vật chân đốt. Kho tàng vi rút khổng lồ đáng kinh ngạc này không chỉ giới hạn ở các dạng sống không phải con người: gần đây chúng ta mới bắt đầu nghiên cứu nhiều loại vi rút khác nhau mà con người dường như mang theo vĩnh viễn (“virome” ở người, xem Chương 39: Hội chứng vi rút) , nhưng dường như không gây ra tác dụng có hại. Một ví dụ là virus Torque teno (TT), được phát hiện tình cờ vào năm 1997 trong quá trình nghiên cứu về bệnh lây truyền qua đường truyền máu.

 

Đi đến:

Bản chất của virus

Các vi sinh vật đơn bào có thể được sắp xếp theo thứ tự kích thước và độ phức tạp giảm dần: động vật nguyên sinh, nấm và vi khuẩn (vi khuẩn bao gồm mycoplasmas, rickettsiae và chlamydiae). Những vi sinh vật này, dù nhỏ và đơn giản, đều là tế bào . Những vi sinh vật như vậy chứa DNA như kho lưu trữ thông tin di truyền, đồng thời cũng chứa nhiều loại RNA khác nhau và hầu hết, nếu không phải tất cả, của bộ máy sản xuất năng lượng và đại phân tử. Những vi sinh vật này phát triển bằng cách tổng hợp các thành phần cao phân tử (axit nucleic, protein, carbohydrate và lipid), và hầu hết nhân lên bằng phân hạch nhị phân.

 

Mặt khác, virus không phải là tế bào hay vi sinh vật. Sự khác biệt chính giữa virus và vi sinh vật được liệt kê trongBảng 1.2 . Virus không có các bào quan chức năng (ví dụ ty thể, Golgi, lục lạp và mạng lưới nội chất), và do đó hoàn toàn phụ thuộc vào vật chủ để thực hiện bộ máy sản xuất năng lượng và tổng hợp các đại phân tử. Virus chỉ chứa một loại axit nucleic chức năng, DNA hoặc RNA, không bao giờ cả hai, và khác với vi sinh vật ở chỗ có vòng đời chia thành hai giai đoạn được xác định rõ ràng. Bên ngoài tế bào chủ, virus trơ về mặt trao đổi chất và có thể được coi là phức hợp của các đại phân tử lớn; trong giai đoạn ngoại bào này của vòng đời virus, sự lây truyền virus phụ thuộc vào sự chuyển động của không khí và chất lỏng, và trong một số trường hợp là vòng đời của vectơ côn trùng. Tuy nhiên, khi ở trong tế bào chủ, virus hoạt động với nhiều đặc tính của sinh vật sống; virus hoạt động trao đổi chất trong đó bộ gen của virus khai thác bộ máy của vật chủ để tạo ra các bản sao bộ gen của thế hệ con cháu, RNA thông tin của virus và protein của virus (thường cùng với carbohydrate và lipid), tất cả sau đó được tập hợp lại để tạo thành virion mới (virion , hạt virus hoàn chỉnh). Sự tập hợp từ các nhóm phân tử tiền thân này trái ngược với sự nhân lên của các sinh vật tế bào bằng phân hạch nhị phân. Ngược lại với bất kỳ vi sinh vật nào, nhiều loại virus có thể sinh sản ngay cả khi chỉ đưa bộ gen DNA hoặc RNA của virus vào tế bào chủ. Những phẩm chất này đã được sử dụng để tranh luận về câu hỏi “Virus có còn sống không?” Một câu trả lời là hãy hình dung virus “ ở rìa cuộc sống ”, theo một cách nào đó đáp ứng các tiêu chí mà chúng ta sử dụng để định nghĩa sự sống, nhưng phần lớn là không.

 

Bảng 1.2

Đặc tính tương phản của vi sinh vật đơn bào và vi rút

 

Tài sản           Vi khuẩn       Rickettsiae    Mycoplasma Chlamydiae  Virus

> đường kính 300 nm a    Đúng  Đúng  Đúng  Đúng  KHÔNG

Tăng trưởng trên phương tiện vô sinh b         Đúng  KHÔNG         Đúng  KHÔNG         KHÔNG

Phân hạch nhị phân           Đúng  Đúng  Đúng  Đúng  KHÔNG

Chứa cả ADN và ARN         Đúng  Đúng  Đúng  Đúng  Không c

Axit nucleic truyền nhiễm            KHÔNG         KHÔNG         KHÔNG         KHÔNG         Nhiều

Ribosome chức năng        Đúng  Đúng  Đúng  Đúng  KHÔNG

Nhạy cảm với kháng sinh Đúng  Đúng  Đúng  Đúng  không d

Mở trong một cửa sổ riêng

a Một số mycoplasma và chlamydiae có đường kính nhỏ hơn 300 nm, còn mimivirus và các “vi rút DNA khổng lồ” mới khác có đường kính lớn hơn 300 nm.

b Chlamydiae và hầu hết rickettsiae là ký sinh trùng nội bào bắt buộc.

c Một số ít virus chứa cả hai loại axit nucleic, nhưng một trong hai loại này đóng vai trò là phân tử chức năng chính và loại còn lại đóng vai trò thứ yếu.

d Với rất ít trường hợp ngoại lệ.

Với những đặc điểm độc đáo của virus, virus có thể có nguồn gốc từ đâu? Có ba lý thuyết chính đã được tranh luận trong nhiều năm. Đầu tiên, virus có thể có nguồn gốc từ các gen sinh vật nhân chuẩn đã thoát ra, đó là các chuỗi axit nucleic, tiến hóa để mã hóa lớp vỏ protein bảo vệ để cho phép tồn tại bên ngoài môi trường của tế bào (transposon và retrotransposon được cho là tiền thân của retrovirus). Thứ hai, virus có thể là dạng thoái hóa của ký sinh trùng nội bào, mất hầu hết các chức năng của tế bào (vi khuẩn được cho là tổ tiên của ty thể, lục lạp và poxvirus); và thứ ba, virus có thể có nguồn gốc độc lập cùng với các phân tử nguyên thủy khác và phát triển với khả năng tự sao chép.

 

Trong trường hợp không có tàn tích hóa thạch, cái nhìn sâu sắc về sự tiến hóa của virus hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào các phân tích trình tự bộ gen của virus. Ví dụ, bộ gen của viroid thực vật (một tác nhân dưới virus bao gồm RNA trần truyền nhiễm), viroid củ khoai tây, dường như là một bản sao RNA tự sao chép của một phần DNA khoai tây chủ. Nhiều gen của poxvirus tương tự như gen của vật chủ nhân chuẩn. Trong mọi trường hợp, có vẻ như chắc chắn từ các phân tích trình tự bộ gen của virus rằng tất cả các loại virus được công nhận hiện nay đều không tiến hóa từ một tổ tiên duy nhất; đúng hơn, các loại vi-rút khác nhau có khả năng phát sinh độc lập từ các nguồn gốc khác nhau, sau đó tiếp tục đa dạng hóa và điều chỉnh các đặc tính sinh tồn và lây truyền để phù hợp hơn với các ổ cụ thể bằng quá trình đột biến và chọn lọc tự nhiên thông thường của Darwin.

 

Cần nhấn mạnh rằng bản thiết kế di truyền của tất cả các loại virus đang chịu áp lực tiến hóa liên tục, đôi khi cho thấy những ví dụ ấn tượng về sự thay đổi di truyền và chọn lọc tự nhiên của những biến thể sống sót tốt nhất. Một số vi-rút đã tiếp tục tiến hóa trong mối liên hệ lâu dài với từng vật chủ liên quan (ví dụ: vi-rút herpes, một số vi-rút retro); một số khác đã tiến hóa bằng cách “nhảy qua loài vật chủ” (ví dụ: vi-rút cúm), và một số khác bằng cách phát triển các cơ chế lây truyền từ động vật sang người (ví dụ: vi-rút bệnh dại).

 

Một số hệ quả thực tế quan trọng xuất phát từ sự hiểu biết rằng virus khác với vi sinh vật và mọi dạng sống: ví dụ, một số virus có thể tồn tại suốt đời trong tế bào chủ bằng cách tích hợp bộ gen DNA (hoặc bản sao DNA của bộ gen RNA) vào bộ gen của tế bào chủ, hoặc bằng cách vận chuyển bộ gen DNA của virus bởi tế bào chủ ở dạng episomal. Vì vi-rút sử dụng cơ chế sao chép của vật chủ nên việc lây nhiễm vi-rút đặt ra những thách thức lớn đối với việc phát triển thuốc chống vi-rút. Các loại thuốc cản trở sự nhân lên của virus hầu như luôn cản trở các chức năng thiết yếu của tế bào vật chủ. Điều này trái ngược với vi khuẩn, chúng có con đường trao đổi chất độc đáo khác với con đường của vật chủ, cho phép chúng được khai thác làm mục tiêu cho kháng sinh.

 

Các loại vi rút đơn giản nhất bao gồm bộ gen DNA hoặc RNA được chứa trong lớp vỏ protein, nhưng có những loại tác nhân lây nhiễm thậm chí còn đơn giản hơn: (1) vệ tinh , là những vi rút khiếm khuyết, phụ thuộc vào vi rút trợ giúp để cung cấp các chức năng thiết yếu như sao chép axit nucleic chức năng hoặc thành phần cấu trúc như protein vỏ; (2) viroid , như đã lưu ý ở trên bao gồm một phân tử RNA trần có khả năng lây nhiễm; và (3) prion , tác nhân gây bệnh não xốp, bao gồm một loại protein truyền nhiễm không có bất kỳ axit nucleic liên quan nào.

 

Đi đến:

Phạm vi của cuốn sách này

Ngay từ đầu, virus học y học đã gắn liền với nhiều ngành khoa học liên quan. Mặc dù cuốn sách này đề cập đến bản thân virus học y tế - các loại virus lây nhiễm sang người và các bệnh gây ra - nhưng việc hiểu được phạm vi đầy đủ của chủ đề này đòi hỏi phải tiếp tục đánh giá cao và tích hợp các ngành khoa học liên quan, từ sinh học tế bào đến dịch tễ học y tế và mở rộng sang hành vi xã hội của con người. . Quan điểm được thể hiện trong cuốn sách này, coi virus học y tế như một khoa học về bệnh truyền nhiễm, nhằm cung cấp một điểm khởi đầu, một điểm tựa cho những ai phải liên hệ chủ đề này với thực hành lâm sàng, thực hành y tế công cộng, nghiên cứu học thuật và các nỗ lực khác.

 

Do đó, Phần I của cuốn sách này đề cập đến các đặc tính của vi-rút, cách vi-rút nhân lên và cách vi-rút gây bệnh. Tiếp theo các chương này là phần tổng quan về các nguyên tắc chẩn đoán, dịch tễ học và cách kiểm soát lây nhiễm vi rút. Phần đầu tiên này được kết thúc bằng cuộc thảo luận về sự xuất hiện và nỗ lực dự đoán những thách thức lớn về sức khỏe cộng đồng tiếp theo. Đây là tài liệu hướng dẫn đi sâu vào các bệnh cụ thể mà người đọc quan tâm như được mô tả trong Phần II.

 

Đi đến:

Đọc thêm

Crawford DH Giới thiệu rất ngắn về virus. Nhà xuất bản Đại học Oxford; Oxford: 2011. [ Học giả Google ]

Flint SJ, Racaniello VR, Rall GF, Skalka AM, Enquist L. Nguyên tắc virus học, hai tập. tái bản thứ tư. Báo chí ASM; Washington, DC: 2015. ISBN-10: 1555819516. [ Google Scholar ]

Kaslow RA, Stanberry LR, LeDuc JW Nhiễm virus ở người, dịch tễ học và kiểm soát. tái bản thứ năm. lò xo; New York: 2014. ISBN 978-1-4899-7447-1. [ Học giả Google ]

Knipe DM, Virus học của Howley PM Field. tái bản thứ sáu. Lippincott Williams và Wilkins; Philadelphia: 2013. ISBN 978-145-110563-6. [ Học giả Google ]

MacLachlan NJ, Virus học thú y của Dubovi EJ Fenner. tái bản thứ tư. Nhà xuất bản học thuật; Luân Đôn: 2011. ISBN 978-0-12-375158-4. [ Học giả Google ]

Waterson AP, Wilkinson L. Giới thiệu về Lịch sử Virus học. Nhà xuất bản Đại học Cambridge; Cambridge: 1978. ISBN 978-0-521-21917-5. [ Học giả Google ]

Zimmer C. Hành tinh của virus. Nhà xuất bản Đại học Chicago; Chicago: 2011. ISBN 978-0-226-98335-6. [ Học giả Google ]

Zinsser H. Chuột, Chấy và Lịch sử. Nhà xuất bản giao dịch; New Brunswick, Mỹ: 1935, tái bản năm 2007. ISBN 978-1-4128-0672-5. [ Học giả Google ]

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 11

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 10

 

THÁNG 9/2020

 

VĂN HÓA - LỊCH SỬ

 

TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative -

 

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 


 

 

MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu